Tuesday, November 18, 2025

The 5th Special Forces Group (SFG) reverted to its Vietnam-era beret flash on March 23, 2016

Liên Đoàn 5 Lực lượng Đặc biệt (5th SFG) đã trở lại sử dụng phù hiệu mũ beret thời chiến tranh Việt Nam vào ngày 23 tháng 3 năm 2016, trong một buổi lễ thay đổi phù hiệu tại Fort Campbell, Kentucky. Sự thay đổi này nhằm tôn vinh lịch sử của nhóm trong Chiến tranh Việt Nam bằng việc khôi phục lại phù hiệu cờ vàng và 3 sọc đỏ.
Buổi lễ diễn ra vào ngày 23 tháng 3 năm 2016.
Phù hiệu mới, bao gồm các sọc chéo vàng và 3 sọc đỏ trên nền đen với viền trắng, là thiết kế mà nhóm đã sử dụng từ năm 1964 đến 1985.
Việc khôi phục phù hiệu này ghi nhận lịch sử phong phú của Liên Đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt tại Việt Nam và tôn vinh các cựu chiến binh đã phục vụ.
Các sọc vàng và 3 sọc đỏ nhằm tưởng nhớ Các Liên Đoàn 1 và Liên Đoàn 7 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ những nhóm đã phục vụ tại Việt Nam trước Liên Đoàn 5.

The 5th Special Forces Group (SFG) reverted to its Vietnam-era beret flash on March 23, 2016, during a beret flash changeover ceremony at Fort Campbell, Kentucky. This change honored the group's history during the Vietnam War by reinstating the flash with yellow and red stripes. 
  • The ceremony took place on March 23, 2016.
  • The new flash, which includes diagonal yellow and red stripes on a black background with a white border, is the same design the group used between 1964 and 1985.
  • The reinstatement of the flash acknowledges the extensive history of the 5th SFG in Vietnam and honors veterans who served.
  • The yellow and red stripes pay tribute to the 1st and 7th Special Forces Groups, which served in Vietnam before the 5th Group. 



Liên Đoàn 5 Lực lượng Đặc Biệt 5 (5th SFG ) là một trong những đơn vị Lực lượng Đặc biệt nước Mỹ hoạt động tích cực được tôn vinh nhiều nhất. Liên Đoàn 5 SFG (A) đã tham gia nhiều trong Chiến tranh Việt Nam và đóng vai trò chính yếu trong những tháng đầu của Chiến dịch Tự do Bền vững. Liên Đoàn 5 được thiết kế để triển khai và thực hiện chín nhiệm vụ theo học thuyết: chiến tranh bất quy ước, phòng thủ nội bộ nước ngoài, một hành động trực tiếp, chống nổi dậy, trinh sát đặc biệt, chống khủng bố, tác chiến thông tin, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, và hỗ trợ lực lượng an ninh.

 Tính đến năm 2016, Liên Đoàn 5 Lực Lượng Đặc biệt chủ yếu chịu trách nhiệm cho các hoạt động trong khu vực phụ trách của CENTCOM như một phần của Bộ Tư lệnh Các hoạt động Đặc biệt, Trung tâm (SOCCENT). Nhóm này chuyên về các hoạt động ở Trung Đông, Vịnh Persian, Trung Á và Sừng châu Phi. Lực lượng Đặc biệt số 5 (A) và hai tiểu đoàn của nó dành khoảng sáu tháng trong mỗi 12 tháng triển khai tới Iraq như là Lực lượng Đặc nhiệm Các hoạt động Đặc biệt Liên hợp – Bán đảo Arab.

 Lịch sử

Dòng dõi đơn vị

Liên Đoàn 5 LLDB 5th SFG (A) có dòng dõi từ Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 3, Lực lượng Dịch vụ Đặc biệt 1, một tổ chức kết hợp giữa Canada và Mỹ được thành lập vào ngày 5 tháng 7 năm 1942 và được kích hoạt bốn ngày sau đó vào ngày 9 tháng 7 tại Pháo đài William Henry Harrison, Montana. Lực lượng Dịch vụ Đặc biệt 1 đã giải thể vào ngày 5 tháng 12 năm 1944 ở Villeneuve-Loubet, Pháp. Liên Đoàn 5 được thành lập vào ngày 15 tháng 4 năm 1960, đồng thời được hợp nhất với Bộ Tư lệnh và Đại Đội Chỉ Huy, Tiểu đoàn Bộ binh Xanh 5 (kích hoạt ngày 1 tháng 9 năm 1943). Đơn vị hợp nhất đã được đổi tên thành Bộ Tư lệnh và Đại Đội Chỉ Huy, Liên Đoàn 5 Lực lượng Đặc biệt, Liên Đoàn 1 Lực lượng Đặc biệt . Các yếu tố hữu cơ được thành lập vào ngày 8 tháng 9 năm 1961. Liên Đoàn 5 được tái kích hoạt vào ngày 21 tháng 9 năm 1961 tại Pháo đài Bragg, Bắc Carolina.Vào ngày 1 tháng 10 năm 2005, đơn vị đã được đổi tên thành Liên Đoàn 5 Lực lượng Đặc biệt, Trung đoàn Lực lượng Đặc biệt số 1.

 Chiến tranh Lạnh Chiến tranh Việt Nam tổ chức các liên đoàn lực lượng đặc biệt trong thời kỳ Việt Nam Năm 1961, Tổng thống John F. Kennedy bắt đầu kích hoạt các đơn vị lực lượng đặc biệt, bao gồm Liên Đoàn 5, nhằm chống lại cuộc nổi dậy của Việt Cộng ngày càng gia tăng. Liên Đoàn 5 SFG lần đầu tiên được điều động như một nhóm cố vấn trên chiến trường cho Quân đội Việt Nam Cộng hòa (ARVN). Năm 1964, Nhóm thuê các nhà sản xuất người Việt và các nước Đông Nam Á khác để sản xuất quân phục, mũ boonie và các sản phẩm khác bằng vải Tigerstripe. Đến tháng 2 năm 1965, cuộc chiến đã diễn ra hết sức nghiêm trọng và Liên Đoàn được điều động như một lực lượng chiến đấu chủ yếu, sử dụng chiến tranh Quy ước và chiến tranh ngoại lệ.

 Từ năm 1961 đến 1963, nhóm đã sử dụng một mảnh vải đen có viền trắng, được thiết kế chủ yếu để tăng khả năng nhìn thấy chống lại mũ beret xanh. Nhân viên của Liên Đoàn 5 tại Việt Nam đã áp dụng một phiên bản mảnh vải khác, thêm vào một dải vàng chéo với ba dải đỏ hẹp một cách chéo lên nền đen và viền trắng hiện có. Phiên bản này đã được sử dụng từ năm 1963 đến 1970. Những màu sắc này tượng trưng cho những người lính của Liên Đoàn 1 và Liên Đoàn 7 LLDB, những người đã phục vụ dưới Liên Đoàn 5 trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Từ năm 1970 đến 1985, phiên bản Huy hiệu khác đã được áp dụng cho toàn bộ Nhóm, chứ không chỉ cho những người phục vụ tại Việt Nam. Huy hiệu của đơn vị đã trở về phiên bản đen đơn giản vào ngày 16 tháng 1 năm 1985. Vào ngày 23 tháng 3 năm 2016, Liên Đoàn 5 Lực lượng Đặc biệt một lần nữa đã chuyển đổi về phiên bản Huy hiệu thời kỳ Việt Nam.

Liên Đoàn 5 Lực lượng Đặc biệt (Nhảy Dù) là duy nhất trong Chiến tranh Việt Nam vì sử dụng nhiều phương tiện thủy, đặc biệt là tàu khí Hurricane Aircat. Nó đã phát động một chiến dịch trên diện rộng chống lại các lực lượng Việt Cộng ở Đồng bằng sông Cửu Long vào tháng 7 năm 1967. Được tiến hành với Quân đội Nam Việt Nam, lực lượng dân sự chiến đấu, và Hải quân và Không quân Hoa Kỳ, chiến dịch được xây dựng xung quanh việc sử dụng khoảng 400 tàu thủy, bao gồm 84 tàu bay, cũng như trực thăng, tàu chiến Hải quân và tàu dân sự. [12] Các hoạt động hải quân mở rộng đòi hỏi một cuộc đại tu chiến thuật để cho phép Nhóm Lực lượng Đặc biệt số 5 sử dụng tốt nhất tốc độ và hỏa lực của các xuồng khí Aircat. Khi được sử dụng với trực thăng vũ trang, thủy phi cơ đệm khí tuần tra và sự hỗ trợ của máy bay trinh sát Không quân, tàu tuần tra sông của Hải quân và pháo binh, những tàu thủy này cho phép "chiến thắng Việt Cộng" và biến mùa lũ thành một lợi thế chiến thuật cho Hoa Kỳ. [13] 

 Việc sử dụng tàu thủy, tăng cường lực lượng quân đội và giới thiệu các chiến thuật khác - triển khai nhiều lính hơn đến các căn cứ Dân sự chiến đấu (CIDG), phân phát các hướng dẫn cải tiến cho các sĩ quan và hạ sĩ quan, v.v. - đã cho phép Nhóm Chiến tranh Đặc biệt thứ 5 đưa cuộc chiến đến kẻ thù, chiếm giữ những vùng lãnh thổ rộng lớn tại đồng bằng, làm cho 50 phần trăm lãnh thổ và các căn cứ CIDG trước đó đã bị Việt Cộng quá đông đến mức không thể vào được, trở nên đủ an toàn để hoạt động, và tiến hành các hoạt động cũng như thành lập các căn cứ CIDG sâu trong lãnh thổ Việt Cộng. Tuy nhiên, những thành tựu này không phải là không có giá: 55 lực lượng đặc biệt và 1,654 người Việt đã thiệt mạng trong năm 1967, cũng như ước tính 7,000 Việt Cộng.

 Thái Khắc Chuyên đang làm việc với Liên Đoàn 5 trong Dự án GAMMA khi những người lính Green Berets phát hiện anh có thể là một điệp viên hai mang. Anh đã trải qua khoảng mười ngày bị thẩm vấn nghiêm ngặt và giam giữ một mình trước khi bị bắn và ném xuống biển. Các báo chí và truyền hình quốc gia đã đưa tin về câu chuyện này, trở thành một điểm nóng khác một cảm giác phản chiến. Cuối cùng, vào tháng 9 năm 1969, Bộ trưởng Quân đội Stanley Resor đã thông báo rằng tất cả các cáo buộc sẽ được xóa bỏ vì CIA, có thể đã có một số liên quan, từ chối không cung cấp nhân sự của mình làm nhân chứng. Vào tháng 4 năm 1970, 5th SFG bắt đầu giảm số lượng nhân viên tại Việt Nam. Sau đó, vào tháng 11 và tháng 12, đã có thêm các đợt giảm số lượng nhân viên và rút quân, kết thúc bằng việc rút hoàn toàn nhóm này vào tháng 3.

 Vào ngày 5 tháng 3 năm 1971, Liên Đoàn 5 Lực lượng Đặc biệt đã trở về Fort Bragg. Liên Đoàn 6 Lực lượng Đặc biệt tại Fort Bragg đã được chuyển tên thành Lực lượng Đặc biệt thứ 5 cùng với việc chuyển giao màu cờ. Nhân sự và trang thiết bị không được chuyển giao. Mười sáu binh sĩ được phân công hoặc bố trí hành chính vào Liên Đoàn 5 Lực lượng Đặc biệt 5 (Nhảy Dù) trong một cuộc chiến tranh tại Việt Nam đã được trao Huân chương Danh dự Medal of Honor ; khiến Liên Đoàn 5 trở thành đơn vị được tưởng thưởng nhiều nhất theo quy mô trong cuộc xung đột đó. Các thành viên của đơn vị tiếp tục tiến hành các hoạt động tình báo ở Đông Nam Á cho đến khi chính phủ Nam Việt Nam sụp đổ vào ngày 29 tháng 4 năm 1975. Binh sĩ của Liên Đoàn 5 là một trong những quân đội Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam.

 Lực lượng Hỗ trợ Quân sự, Việt Nam – Nhóm Nghiên cứu và Quan sát (MACV-SOG) là một lực lượng tác chiến phi truyền thống liên quân do Tham mưu trưởng Liên hợp tạo ra như một chỉ huy phụ thuộc của Lực lượng Hỗ trợ Quân sự, Việt Nam (MACV). Đơn vị này cuối cùng chủ yếu bao gồm nhân sự từ Lực lượng Đặc biệt Quân đội Hoa Kỳ. Những người khác được chỉ định đến MACV-SOG đến từ SEALs Hải quân Hoa Kỳ, Không quân Hoa Kỳ, Bộ phận Hoạt động Đặc biệt của Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA), và các đơn vị Tiền phương của Lực lượng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ. Nhóm Nghiên cứu và Quan sát thực tế được kiểm soát và chỉ định nhiệm vụ bởi Trợ lý Đặc biệt về Đối phó Bạo loạn và Hoạt động Đặc biệt (SACSA) và nhân viên của ông tại Lầu Năm Góc. Sau năm 1967, Bộ Tư lệnh Nhóm Đặc biệt thứ 5 (Lực lượng dù) đã cung cấp sự hỗ trợ hành chính cho các binh sĩ Lực lượng Đặc biệt MACV-SOG tại Việt Nam.

 Nhóm Lực lượng Đặc biệt số 5 (Dù) đã có trụ sở tại Fort Bragg cho đến ngày 10 tháng 6 năm 1988, khi cờ của Nhóm được cất tại một buổi lễ đánh dấu sự ra đi của nó 

Chuyển đến Fort CampbellVào giữa những năm 1980, Quân đội quyết định chuyển Nhóm 5 từ Fort Bragg. Điểm đến ban đầu là Fort Bliss, Texas, vì môi trường huấn luyện lý tưởng của nó. Vào năm 1986, Tổng tham mưu trưởng Quân đội đã quyết định rằng môi trường huấn luyện không nên là yếu tố chính trong việc xác định nơi chuyển Nhóm. Ông đã yêu cầu một phân tích khác xem xét các yếu tố như tổng chi phí, chi phí xây dựng quân sự, và tác động của việc di chuyển và kích hoạt đơn vị đối với dân số trên căn cứ. Sau phân tích này, ông quyết định chuyển Nhóm đến Fort Campbell vào cuối năm 1988. Bộ trưởng Quân đội đã phê duyệt kế hoạch.Các màu cờ được công bố vào ngày 16 tháng 6 năm 1988 tại nhà mới của đơn vị tại Fort Campbell, Kentucky, bởi Tướng Thiếu tướng Teddy G. Allen, Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy dù 101 (Nhảy dù tấn công) và Fort Campbell, Kentucky; Đại tá (hiện là Thiếu tướng về hưu) Harley C. Davis, Tư lệnh Nhóm Lực lượng Đặc biệt 5 (Nhảy dù); và Thượng sĩ Chỉ huy Joseph Dennison..

 Cuối Chiến tranh LạnhNăm 1989, Chiến dịch Salam thiết lập các trại huấn luyện rà phá mìn của Liên Hợp Quốc cho người Afghanistan tại Risalpur và Quetta ở Pakistan. Đến năm 1995, các trại này đã đào tạo 17.055 nhân viên rà phá mìn. Chiến dịch Salam cũng nhằm giúp người tị nạn Afghanistan nhận diện mìn và thực hiện các biện pháp phòng ngừa thích hợp.Cán bộ của Nhóm 5 tham gia vào chiến dịch này đã được trao Huân chương Dịch vụ đặc biệt của Liên Hợp Quốc (UNSSM) vì đã phục vụ với Văn phòng một Liên Hợp Quốc về Phối hợp Hỗ trợ Nhân đạo cho Afghanistan (UNOCHA).

 Chiến tranh Vùng Vịnh Persian - Các hoạt động Lá Chắn Sa Mạc và Bão Sa Mạc Nhóm Lực lượng đặc biệt số 5 (Dù) đã bổ sung vào lịch sử chiến đấu của mình trong các hoạt động Lá Chắn Sa Mạc và Bão Sa Mạc. Vào tháng 8 năm 1990, nhóm đã được yêu cầu tiến hành các hoạt động tại Tây Nam Á để phản ứng lại việc Iraq xâm lược Kuwait. Trong cuộc khủng hoảng này, Lực lượng Đặc biệt đầu tiên của Quân đội, bao gồm các đơn vị của Nhóm Lực lượng đặc biệt số 5 (Dù), gồm 106 đội đặc nhiệm, đã thực hiện một loạt các nhiệm vụ đa dạng. Những nhiệm vụ này trải dài trên nhiều lĩnh vực hoạt động, bao gồm hỗ trợ chiến tranh liên minh; thực hiện các nhiệm vụ phòng thủ nội bộ với Quân đội Ả Rập Saudi; thực hiện trinh sát đặc biệt, giám sát biên giới, hành động trực tiếp, tìm kiếm và cứu hộ trên chiến trường; cũng như tư vấn và hỗ trợ một lực lượng tương đương liên Ả Rập lớn hơn sáu sư đoàn Mỹ; và thực hiện đào tạo hoạt động dân sự-quân sự và liên lạc với người Kuwait.

 Nhiệm vụ giám sát biên giới được giao cho Lực lượng Đặc nhiệm số 5 là chìa khóa để cung cấp thông tin tình báo có thể hành động cho Mỹ và các lực lượng Pan-Arab. Các mối quan hệ quân sự mới đã được thiết lập giữa Mỹ và các quốc gia Ả Rập. Tướng Norman Schwarzkopf mô tả Lực lượng Đặc nhiệm là "cặp mắt và đôi tai" của các lực lượng thông thường và là "chất keo giữ liên minh lại với nhau."Trong khoảng thời gian từ ngày 2 tháng 8 năm 1990 đến ngày 30 tháng 11 năm 1995, một số thành viên không tiết lộ tên đã được trao Huy chương Dịch vụ Tây Nam Á, Huy chương Giải phóng Ả Rập Saudi, Huy chương Giải phóng Kuwait, Huy chương Dịch vụ Quốc phòng và Giải thưởng Đơn vị Dũng cảm theo các Mệnh lệnh Tổng tư lệnh 14.

 Tướng Norman Schwarzkopf mô tả Lực lượng Đặc biệt là "đôi mắt và đôi tai" của các lực lượng thông thường và là "chất keo kết nối liên minh lại với nhau".Trong khoảng thời gian từ 2 tháng 8 năm 1990 đến 30 tháng 11 năm 1995, các thành viên được chọn không được nêu tên đã được một số huy chương như Huy chương Dịch vụ Tây Nam Á, Huy chương Giải phóng Ả Rập Xê Út, Huy chương Giải phóng Kuwait, Huy chương Dịch vụ Quốc phòng và Giải thưởng Đơn vị Dũng cảm theo Chỉ thị Tổng quát 14.Các hoạt động Phục hồi Hy vọng và Kheo UnitedCác bài viết chính: Lực lượng Tác chiến Thống nhất và Chiến dịch Kheo UnitedVào ngày 3 tháng 12 năm 1992, Nghị quyết an ninh của Liên Hợp Quốc 794 đã cho phép sự can thiệp do Hoa Kỳ lãnh đạo "để sử dụng tất cả các phương tiện cần thiết nhằm thiết lập một môi trường an toàn cho các hoạt động cứu trợ nhân đạo ở Somalia càng sớm càng tốt." Một số thành viên được chọn của đơn vị đã được trao Huy chương Thám hiểm Lực lượng Vũ trang và Huy chương Liên Hợp Quốc.

 Cuộc chiến tranh toàn cầu chống khủng bố tại Afghanistan Các bài viết chính: Cuộc xâm lược của Hoa Kỳ vào Afghanistan và Cuộc chiến tại Afghanistan Sau các vụ tấn công ngày 11 tháng 9, chính phủ Hoa Kỳ đã hành động nhanh chóng. Ngày hôm sau, Tổng thống Bush đã gọi các vụ tấn công này là không chỉ đơn thuần là "hành động khủng bố" mà còn là "hành động chiến tranh" và quyết tâm truy đuổi và đánh bại một "kẻ thù" mà sẽ không còn an toàn ở "cảng của nó". Đến ngày 13 tháng 9 năm 2001, Nhóm Lực lượng Đặc nhiệm 5 được chỉ định thành lập một bộ chỉ huy phía trước để tiến hành các hoạt động tại Afghanistan. Đơn vị này nhận được lệnh vào giữa tháng 10. Nhiệm vụ của họ rất rộng lớn: hỗ trợ Tướng Abdul Rashid Dostum trong việc tiến hành chiến tranh phi truyền thống để khiến các khu vực then chốt do Taliban kiểm soát trở nên không an toàn cho các hoạt động của khủng bố và Taliban.

 Lực lượng Đặc nhiệm Dagger, được thành lập vào ngày 10 tháng 10 năm 2001, được xây dựng xung quanh Đơn vị 5 SFG với sự hỗ trợ trực thăng từ Đơn vị 160 SOAR, và được giao nhiệm vụ thâm nhập vào miền Bắc Afghanistan nhằm tư vấn và hỗ trợ cho các chỉ huy của Liên minh phía Bắc.Nhóm đầu tiên của Lực lượng Đặc nhiệm Dagger bao gồm bảy thành viên của Bộ phận Hoạt động Đặc biệt và Trung tâm Chống Khủng bố (CTC) của CIA, do Gary Schroen dẫn dắt, những người đã thành lập Nhóm Liên lạc miền Bắc Afghanistan. Đội CIA đã thâm nhập vào Afghanistan vào thung lũng Panjshir, phía bắc Kabul, vào ngày 26 tháng 9, chỉ 15 ngày sau các cuộc tấn công vào ngày 11 tháng 9. Họ mang theo ba hộp bìa chứa $3 triệu bằng tiền mệnh giá 100 đô la để mua sự hỗ trợ. Được biết đến với mật danh Jawbreaker, đội đã liên lạc với các chỉ huy của Liên minh phía Bắc và chuẩn bị cho việc giới thiệu các Đơn vị Đặc biệt của Quân đội vào khu vực. 30-31

 Chèn vàoCác Đơn Vị Tác Chiến Lực Lượng Đặc Biệt 555 và A-595 đã được chèn vào Afghanistan vào ban đêm trong điều kiện không thể nhìn thấy được bằng hai chiếc trực thăng MH-47 Chinook.Đơn Vị Tác Chiến Alpha (ODA) 555 và 595, mỗi đội gồm 12 người, cộng với các kiểm soát viên chiến đấu của Không quân, là hai nhóm thứ hai và thứ ba của Lực lượng Đặc nhiệm Dagger và là nhân viên quân sự Mỹ đầu tiên vào Afghanistan. Một lần chèn thử đã được thực hiện vào ngày 17 tháng 10 nhưng đã bị hủy bỏ do điều kiện thời tiết. Hai ngày sau, vào ngày 19 tháng 10, hai đội này đã được bay từ Căn cứ Không quân Karshi-Khanabad cũ của Liên Xô ở Uzbekistan hơn 300 km (190 dặm) qua dãy núi Hindu Kush cao 4.900 mét (16.100 ft). Họ bay bằng hai chiếc trực thăng MH-47E Chinook thuộc Trung đoàn Không quân Đặc biệt 160 và được hộ tống bởi hai chiếc MH-60L Black Hawks “DAP” (Penetrator Hành động trực tiếp). Điều kiện bay rất khó khăn do độ cao và hiện tượng băng trên dãy Hindu Kush.

 Các phi công trực tiếp đã bị buộc phải quay lại khi họ không thể thương thảo để qua một lối đi. Ở một số độ cao nhất định, lực lượng đã phải sử dụng 'bình thoát hiểm' dùng một lần do thiếu oxy. Vì chỉ có đủ bình cho chuyến bay ra ngoài, nên nhiệm vụ này là 'một chiều' đối với các quân nhân. Do độ dài của hành trình, các phi công cần tiếp nhiên liệu giữa chuyến bay; việc tiếp nhiên liệu này được thực hiện ở độ cao thấp trong điều kiện tối và tắt sóng. Vào cuối chuyến bay, các phi hành đoàn MH-47 đã thiết lập kỷ lục thế giới về trực thăng chiến đấu, tiếp nhiên liệu ba lần trong 11 giờ bay. Sau khi tiếp nhiên liệu, họ đã bay vào một cơn bão cát và sương mù dày đặc, tạo ra điều kiện tầm nhìn gần như bằng không.ODA 555 đã được thả xuống thung lũng sông Panjshir chỉ cách Kabul 20 dặm về phía Bắc, nơi họ gặp gỡ lãnh chúa Fahim Khan và lực lượng Liên minh Bắc. Liên minh Bắc đang trong tình trạng bế tắc với các lực lượng Taliban gần căn cứ Bagram và hy vọng rằng ODA sẽ có thể giúp thay đổi cục diện. Chinook thứ hai đã thả ODA 595, do Đại úy Mark D. Nutsch lãnh đạo, xuống một cánh đồng của nông dân lúc 0200, trong thung lũng Dari-a-Souf, cách Mazar-i-Sharif khoảng 80 km (50 dặm) về phía Nam. Các đội đã đến nơi chỉ 39 ngày sau cuộc tấn công của Al-Qaeda vào Trung tâm Thương mại Thế giới cho một nhiệm vụ dự kiến kéo dài một năm. Các đội vô cùng cô lập, cách hàng trăm dặm so với bất kỳ lực lượng đồng minh nào. Trong trường hợp có thương tích hoặc phải rút lui, bất kỳ hoạt động cứu viện nào cũng sẽ mất hàng giờ hoặc hàng ngày mới có thể đến nơi. Sau khi đến nơi, cả hai đội đã kết nối với Liên minh Bắc và các cố vấn CIA 'Jawbreaker'.[28]

 Một số thành viên trong đội CIA đã từng phục vụ trong các hoạt động đặc biệt của quân đội Mỹ, nhưng họ có mặt tại quốc gia này với tư cách là các nhà điều hành dân sự.Tại khu vực phía nam Afghanistan, một đơn vị kích cỡ trung đoàn khoảng 200 lính Ranger từ Trung đoàn Ranger số 75, Tiểu đoàn 3 đã được đưa vào bằng bốn chiếc máy bay Lockheed MC-130 và đã chiếm một đường băng trên sa mạc phía nam thành phố Kandahar trong Chiến dịch Rhino.

 Chiến đấu trên lưng ngựa Các thành viên của ODA 595, một phần của Lực lượng Task Force Dagger, và các lực lượng Afghanistan cưỡi ngựa vào miền Bắc Afghanistan vào tháng 10 năm 2001. Khi họ đến quốc gia này, các binh sĩ của Liên minh Bắc đã cung cấp cho lực lượng Mỹ những con ngựa, phương tiện di chuyển duy nhất phù hợp với địa hình núi non khó khăn của miền Bắc Afghanistan. Chỉ có chỉ huy ODA 595, Đại úy Mark D. Nutsch, có kinh nghiệm đáng kể trên lưng ngựa, nhưng tất cả đều nhanh chóng chấp nhận. Đại úy Will Summers, lãnh đạo đội Lực lượng Đặc biệt, đã nói: "Như thể The Jetsons đã gặp The Flintstones." Đơn vị quân đội Mỹ cuối cùng nhận được đào tạo cưỡi ngựa là kỵ binh 28 vào năm 1943 và các đội ODA là những người lính Mỹ đầu tiên cưỡi ngựa vào trận chiến kể từ ngày 16 tháng 1 năm 1942, khi Trung đoàn Kỵ binh 26 của quân đội Mỹ đã xông lên một đội tiền phương của Quân đội Nhật Bản thứ 14 khi họ tiến ra từ Manila.[42]

 Những con ngựa Afghanistan đều là ngựa đực, và chúng thường xuyên đánh nhau, điều này khiến việc cưỡi ngựa trở nên đặc biệt khó khăn cho những người vẫn còn đang học. Họ một mình cưỡi dọc theo những con đường bên vách đá mà độ cao rơi xuống gần 1.000 feet (300 m), thường là vào ban đêm. Trong vài tuần tiếp theo, họ đã di chuyển 10 đến 30 kilomet (6,2 đến 18,6 dặm) mỗi ngày. Một con ngựa đực mà Summers cưỡi đặc biệt mạnh mẽ và tràn đầy sức sống. Trong một chuyến cưỡi đặc biệt nguy hiểm từ một đèo cao, khi leo xuống nhiều đoạn ngoằn ngoèo, con ngựa của anh ta đã tự mình dẫn đường và nhảy thẳng xuống sườn núi. Khi chạy xuống bên vách đá, Summers hầu như không thể giữ thăng bằng trong yên ngựa, nhưng thật kỳ diệu, anh và con ngựa của mình đã xuống tới nơi nguyên vẹn. Khi Tướng Dostum và những người khác đuổi kịp, Tướng nhìn anh ta một cách hơi lạ lùng trước khi nói Summers là 'người cưỡi ngựa tuyệt vời nhất mà ông từng thấy'. Danh hiệu này đã gắn liền với anh và sau đó anh được biết đến với tên gọi 'người cưỡi ngựa dũng cảm nhất ở Afghanistan'.

 Đại úy Nutsch đã nhanh chóng yêu cầu thay thế cho những chiếc yên nhỏ, cứng, bằng gỗ truyền thống mà quân đội Afghanistan sử dụng. Ông đã chỉ định một lô yên nhẹ, kiểu McClellan hoặc kiểu Úc, phù hợp với những con ngựa nhỏ hơn của Afghanistan. Một lô yên đã được thả xuống từ máy bay vào giữa tháng 11. [35] Một bức ảnh của các quân nhân cưỡi ngựa đã được Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld trình chiếu trong một cuộc họp báo vào ngày 15 tháng 11 năm 2001. Khi nhà điêu khắc Douwe Blumberg nhìn thấy nó, ông đã bị hình ảnh này ấn tượng và sau đó đã tạo ra tác phẩm điêu khắc công cộng duy nhất để tưởng nhớ các lực lượng đặc biệt, Tượng đài Phản ứng của Mỹ.

 Vào ngày 21 tháng 10, Liên minh Phương Bắc do Tướng Dostum dẫn đầu đã chuẩn bị tấn công làng được củng cố Bishqab. Lực lượng của Dostum được trang bị AK47, súng máy nhẹ và súng phóng lựu. Liên minh Phương Bắc có tổng cộng khoảng 1.500 kỵ binh và 1.500 bộ binh nhẹ. Họ được hỗ trợ bởi nhóm Lực lượng Đặc biệt Mỹ gồm 12 thành viên và sức mạnh không quân của Mỹ. Bishqab được phòng thủ bởi một số xe tăng T-54/55, một số BMP (xe chở quân bọc thép) được trang bị súng tự động và súng máy, và một số pháo phòng không ZSU-23, cùng với súng cối, súng máy, súng phóng lựu và mìn. Thiết giáp và vũ khí hạng nặng thường được điều khiển bởi các tay súng Taliban và Al-Qaeda nước ngoài, những người chiến đấu mạnh mẽ và không dễ dàng đầu hàng.[37]

 Đại úy Nutsch đã nhanh chóng yêu cầu thay thế cho những chiếc yên nhỏ, cứng, bằng gỗ truyền thống mà quân đội Afghanistan sử dụng. Ông đã chỉ định một lô yên nhẹ, kiểu McClellan hoặc kiểu Úc, phù hợp với những con ngựa nhỏ hơn của Afghanistan. Một lô yên đã được thả xuống từ máy bay vào giữa tháng 11. Một bức ảnh về những người lính cưỡi ngựa đã được Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld trình chiếu trong một cuộc họp báo vào ngày 15 tháng 11 năm 2001. Khi nhà điêu khắc Douwe Blumberg nhìn thấy bức ảnh đó, ông đã bị ấn tượng bởi hình ảnh và sau đó đã tạo ra tác phẩm điêu khắc công cộng duy nhất để tưởng niệm các lực lượng đặc biệt, Đài tưởng niệm Phản ứng của Mỹ.

 Ngày hôm sau, Liên minh Phương Bắc chuẩn bị tấn công Cobaki. Các đội đặc nhiệm của Hoa Kỳ đã sử dụng SOFLAM Laser Target Designators để xác định mục tiêu cho các cuộc không kích vào xe tăng và pháo của kẻ thù. Liên minh Phương Bắc tiếp tục cuộc tấn công bằng một đợt kỵ binh. Khi có vẻ một cuộc tấn công kỵ binh của Dostum sẽ thất bại, một số thành viên của ODA 595 đã can thiệp và giúp giành chiến thắng trong trận chiến. Trong hai tuần đầu tiên, ODA 595 được gia nhập bởi hai lính đặc nhiệm nữa, nâng tổng số lên 14. Họ chia nhóm thành bốn đội ba người và rải ra trên 60 kilômet (37 dặm) địa hình núi, trong một số trường hợp cách nhau từ 12 đến 18 giờ trên lưng ngựa. Mỗi đội quân nhân chuyên nghiệp đã tư vấn cho các chỉ huy cấp cao của Liên minh Phương Bắc và gọi không kích cũng như tiếp tế cho lực lượng của họ.

Monday, November 17, 2025

QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA BIỆT KÍCH LÔI HỔ, CÁC ANH LÀ AI?

Kể từ 1972 trở về sau, địa bàn hoạt động của các Toán thuộc Nha Kỹ Thuật / BTTM được thu hẹp lại cho thích hợp với nhu cầu chiến trường. Do đó, các Đoàn và Chiến đoàn công tác đều được tăng phái cho các Quân đoàn và thực hiện những cuộc hành quân thám sát nội biên sau hậu tuyến địch, nhằm mục đích cung cấp cho Quân đoàn những tin tức xác thực để khai thác.
Vị Chỉ huy trưởng đầu tiên của Sở Công Tác là Đại Tá Ngô thế Linh, nguyên là Phó Giám đốc Nha Kỹ Thuật / BTTM. Các vị chỉ huy kế tiếp là Đại Tá Nguyễn văn Hai và Đại Tá Ngô xuân Nghị trước phục vụ tại Sư đoàn Nhảy Dù.
Để yểm trợ cho các Toán hành quân Không vận của Sở Liên lạc và sở Công Tác. Sở Không Yểm có nhiệm vụ liên lạc với Bộ Tư lệnh Không quân, đáp ứng nhu cầu hành quân của Nha Kỹ thuật. Các nhu cầu này gồm phương tiện trực thăng xâm nhập và triệt xuất, các phi vụ thả toán xử dụng phi cơ từ C.47 đến C.123 và C. 130 do phi hành đoàn KQVN thực hiện. Các phi vụ quan sát bằn L.19 hay L.20, các phi vụ bảo trợ thả toán Skyraiders hay F.5. Các đơn vị Không quân này không trực thuộc Nha Kỹ Thuật nhưng các phi vụ đặc biệt này đều được ưu tiên thực hiện theo nhu cầu. Đặc biệt Phi Ðoàn trực thăng 219 được thường xuyên tăng phái cho Nha Kỹ Thuật / BTTM. Đơn vị này đồn trú tại Nha Trang, Những phi vụ tối ư đặc biệt và ngoài khả năng của KQVN đều do Không quân Hoa kỳ đảm trách, xuất phát từ các căn cứ trên lãnh thổ Đệ Tam Quốc Gia.
Trước năm 1964, một số phi vụ thả toán vào lãnh thổ Bắc Việt được thực hiện với các phi hành đoàn ngoại quốc do cơ quan tình báo Hoa Kỳ đảm trách và hoạch định qua hãng Air America tại Saigon. Sĩ quan liên lạc Không quân và cũng là Chỉ huy trưởng Sở Không Yểm từ năm 1961 cho đến tháng Tư năm 1975 là Đại Tá Dư Quốc Lương.
Nói về các hoạt động đặc biệt của Nha Kỹ Thuật mà không đề cập đến các công tác hải vận của đơn vị này là một thiếu sót đáng kể. Công tác Hải vận và Biệt Hải của Nha Kỹ Thuật / BTTM được giao phó cho Sở Phòng Vệ Duyên Hải. Tiền thân của Sở này là căn cứ " Pacific ", trong hệ thống tổ chức của Phòng 45 thuộc Sở Khai thác Địa Hình. Sở Phòng vệ Duyên Hải được chính thức hoạt động Khoảng cuối năm 1964 và đầu 1965. Trước đó phương tiện xâm nhập các nhân viên điệp báo và các Toán tại các vùng Duyên hải Bắc Việt đều xử dụng các thuyền máy đánh cá, sửa chữa lại theo kiểu thuyền miền Bắc. Các thuyền này được đưa về Đà Nẳng để huấn luyện và thực tập về công tác xâm nhập cùng với nhân viên hay Toán hoạt động.
Sau này vì khả năng có giới hạn của các thuyền này và vì nhu cầu tốc độ và khả năng chiến đấu để bảo vệ, cơ quan Tình báo Hoa kỳ đã cung cấp cho Nha Kỹ thuật / BTTM các loại Chiến đỉnh SWIFT và NASTY, do một số thủy thủ đoàn ngoại quốc chỉ huy. Các Chiến đỉnh này có tốc dộ nhanh và được võ trang để tự vệ nếu bị Hải quân Cộng sản tấn công. Tuy vậy, các tàu này chỉ có tầm hoạt động ngắn, không qua vĩ tuyến 20. Sau này, sau khi MACV-SOG đảm trách yểm trợ NKT / BTTM, Sở Phòng vệ Duyên Hải được tăng cường các chiến đỉnh lớn PFT ( Patrol - Torpedo - Fast ) có tầm hoạt động xa, tốc độ nhanh và trang bị hỏa lực mạnh.
Các loại tàu này không những có khả năng tự vệ mà còn có khả năng đánh phá và tấn công các mục tiêu Cộng Sản nếu cần. Bộ Tư lệnh Hải Quân cũng được chỉ thị cung cấp các thủy thủ đoàn cho các chiến đỉnh này. Các hoạt động đặc biệt do Sở Phòng Vệ Duyên Hải thực hiện đều nằm trong sự kiểm soát và trách nhiệm của Nha KT / BTTM, không có liên hệ nào đối với Bộ Tư Lệnh Hải Quân và hoàn toàn được bảo mật tối đa. Các Thủy thủ đoàn này đều nằm trong Lực lượng Hải tuần trực thuộc Sở Phòng Vệ Duyên Hải. Sở này được một vị cấp Tá do BTL / HQ biệt phái chỉ huy. Vị chỉ huy trưởng đầu tiên là Thiếu Tá Ngô thế Linh (từ năm 1964 đến 1966), sau đó là Trung Tá Hồ văn Kỳ Thoại, sau này được thăng cấp Đề Đốc. Các Toán người Nhái và hoạt động được gọi là Lực Lượng Biệt Hải và thuộc Lực lượng Biệt Hải của Sở này. Các Toán này được huấn luyện và thi hành những công tác đặc biệt tương đương với các Toán SEAL ( Sea Air Land ) thuộc Lực lượng Hoa Kỳ. Toán viên Biệt Hải được huấn luyện về bơi lội, xử dụng Scuba, Nhảy Dù ngoài những kỹ thuật hành quân đặc biệt khác.
Toán có khả năng xâm nhập nhảy dù xuống các vùng mục tiêu dọc theo miền duyên hải, xử dụng bãi nhảy sát bờ biển hay cả trên mặt nước. Sau khi hoàn thành công tác, Toán có thể triệt xuất bằng cách bơi ra khỏi để được tàu tiếp đón và đưa về căn cứ ở Miền Nam. Các công tác này rất nguy hiểm nên phải được thiết kế một cách chi tiết và thận trọng.
Sau hiệp định Paris, hoạt động của Sở này bị giảm thiểu đáng kể và sau đó được tăng phái hành quân cho các Quân đoàn để thi hành một vài công tác đặc biệt tại các vùng do Cộng Sản kiểm soát tại miền Nam.
Một bộ phận hoạt động quan trọng khác trong hệ thống trách nhiệm của NKT / BTTM là Sở Tâm Lý Chiến. Tuy rằng trong thành phần tổ chức của Bộ Chỉ Huy Nha, Sở Tâm Lý Chiến là một đơn vị hoạt động không phải thuần túy tham mưu. Sở này sử dụng đa sồ chuyên viên dân sự để điều khiển các hệ thống phát thanh và các công tác chiến tranh chính trị khác nhằm yểm trợ cho cho hoặt động đặc biệt tại miền BẮC. Sở có trách nhiệm điều khiển hai hệ thống phát thanh. Đài Tiếng nói Tự Do là một hệ thống phát thanh " Xám ", tiếng nói của những người mến chuộng Tự Do chống đối hệ thống tư tưởng Cộng Sản. Một hệ thống phát thanh bí mật khác là Đài " Gươm thiêng ái quốc ", tiếng nói của Mặt trận Giải phóng Miền Bắc, nhằm hỗ trợ cho các công tác của các Toán đặc biệt nằm trong lãnh thổ Miền bắc. Ngoài công tác phát thanh, Sở TLC / NKT đã thực hiện nhiều công tác ly gián, lừa địch, sử dụng các Hồi chánh viên và Tù binh chính qui Bắc Việt.
Hai Đài phát tuyến Cồn Tre tại Quảng Trị và Thanh Lam tại Huế có tầm hoạt động rộng lớn bao gồm cả lãnh thổ Bắc Việt cho đến biên giới Hoa Việt. Phần lớn các hoạt động Tâm lý chiến và phát thanh đều được cơ quan Tình Báo Hoa Kỳ tài trợ và cố vấn về kỹ thuật. Sau này, " Đài Gươm Thiêng Ái Quốc " chấm dứt hoạt động vì tình hình chiến sự và chính trị thay đổi. Đài " Mẹ Việt Nam " được nối tiếp để duy trì công tác phát thanh của Nha Kỹ Thuật.
Đại Tá Trần văn Hổ nhậm chức Giám đốc Nha Kỹ Thuật / BTTM kể từ năm 1964 cho đến tháng 8 năm 1968. Chính trong thời kỳ này rất nhiều kế hoạch và hoạt động đặc biệt nhằm vào lãnh thổ miền Bắc được thực hiện. Sau vụ tấn công của Cộng Sản vào Tết Mậu Thân và các cuộc hòa đàm giữa Hoa Kỳ và Bắc việt tại Paris, hoạt động đặc biệt lần lần bị giảm thiểu, nhất là những công tác ngay trong lãnh thổ Bắc Việt. Các công tác này được tập trung và gia tăng tại các vùng giáp tuyến và các vùng biên giới Lào Việt, Miên Việt. Đại Tá Đoàn văn Nu được Đại tướng Tổng Tham mưu Trưởng bổ nhiệm làm Giám đốc thay thế Đại Tá Trần văn Hổ vào khoảng tháng 8 năm 1968 và tiếp tục chỉ huy Nha Kỹ Thuật cho tới ngày cuối cùng của Nha.
Trong thời kỳ này, tình hình chiến sự và chính trị thay đổi, đặc biệt nhất là đường lối của Hoa kỳ đối với chiến trường Việt Nam không còn quyết tâm như trước, do đó các công tác đặc biệt không còn được hỗ trợ mạnh mẽ như trước năm 1968. Tuy vậy, Nha Kỹ thuật / BTTM vẫn tiếp tục thực hiện nhiều thành tích đáng kể. Các Toán hoạt động tuy không phải xâm nhập vào lãnh thổ Bắc Việt hoặc sâu vào biên giới Lào Miên, được trực thăng vận ngay vào các khu vực địch kiểm soát. Các cuộc hành quân này cũng không kém phần quan trọng và còn nguy hiểm hơn nhiều. Các Toán này đã gây trở ngại và làm chậm mức xâm nhập của Cộng Sản trong mưu đồ xâm lược miền NAM Việt Nam.
Các Toán hành quân của Nha Kỹ thuật, dù thuộc một đơn vị nào cũng luôn luôn chứng tỏ tinh thần dũng cảm, đầy nhiệt huyết, xem sự chết nhẹ tựa lông hồng, chiến đấu oai hùng trong mọi nguy hiểm và hoàn cảnh khó khăn. Cuộc chiến đấu chống Cộng tuy đã chấm dứt vào cuối tháng 4 năm 1975, nhưng tinh thần của cuộc chiến và những giờ phút oai hùng đó không dễ gì phai mờ trong tâm trí cũa những Cựu Chiến Sĩ Nha Kỹ Thuật này.
Viết tại Winston-Salem, North Carolina
Cựu Quân nhân Trung Tá Lữ Triệu Khanh
Nha Kỹ Thuật BTTM/ QLVNCH
Hồn Ma Biên Giới là danh từ ám chỉ những người lính vô danh thuộc đơn vị Nha Kỹ Thuật mà dân chúng thường biết như là chiến sĩ Lôi Hổ.
Một đơn vị ưu tú của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được thành lập năm 1964 với sự huấn luyện và yểm trợ tối đa của các đơn vị cố vấn Hoa Kỳ nhưng tổ chức rất bí mật ngay cả nhựng đơn vị bạn không được biết về
những hoạt động của Họ
Từ những đơn vị Liên đoàn 77, đến Biệt Kích Nhảy Bắc cuối cùng là những toán hoạt động được gọi Sở dưới danh xưng Nha Kỹ Thuật như Sở Bắc, Sở Công Tác, Sở Phòng Vệ Duyện Hải, Sở Không Yểm, Sở Tâm Lý Chiến,....
Riêng nói về Những Anh Hùng Chiến Sĩ Biệt Kích Lôi Hổ Nha Kỹ Thuật, các anh đã trải qua thời kỳ huấn luyện thật kỹ càng để trở thành những chiến binh đa năng, kiến hiệu.
- Các Anh biết xử dụng hầu hết các loại vũ khí thông dụng và đặc biệt, hầu hết các trang bị và dụng cụ với kỹ thuật tân kỳ.
- Các Anh còn phải học cả cách sống trong đất địch, hội nhập với dân của địch, sống trong cõi địch một cách tự nhiên, lọt qua tầm mắt kiểm soát và truy lùng của địch.
- Các Anh thật sự thành những Chiến Sĩ Vô Danh, hay trang trọng hơn, Các Anh thành những Anh Hùng Vô Danh khi Các Anh từ bỏ tên họ của chính mình khi gia nhập và không có cả số quân và hồ sơ lý lịch.
Những nơi chốn các chiến sĩ Lôi Hổ đặt chân đến và nhiệm vụ, nơi người chiến sĩ Lôi Hổ đến, là chỉ biết tọa độ tùy theo nhiệm vụ được giao phó, không được biết thêm chi tiết nào khác, có khi cả địa danh, khi công tác hoàn thành, có người đã hy sinh, có người được trở về.
Những công tác của người chiến sĩ Lôi Hổ, ngoài cấp chỉ huy hữu nhiệm của Nha Kỹ Thuật, không ai biết người chiến sĩ Lôi Hổ đã làm gì, ở đâu, thành qủa ra sao và hậu quả như thế nào? .Và nếu rủi ro hơn nữa, họ ngã gục trước mũi đạn quân thù thì xác người chiến sĩ Lôi Hổ đó thành tử thi vô danh, vô chủ! Những chiến sĩ Lôi Hổ đó là những Chiến Sĩ Vô Danh, đã hy sinh bảo vệ miền Nam tự do suốt cuộc chiến dài.
Đã có nhiều người nằm xuống trong cõi địch.
Có nhiều người còn bị địch giam cầm, có thể còn có những người đang tiếp tục sống trong lòng địch, tiếp tục cộng tác trong hình thức khác với niềm tin sắt đá bảo vệ chính nghĩa quốc gia.
Đời lính gian khổ vào sinh ra tử là chuyện bình thường, đặc biệt là lính Lôi Hổ, mỗi lần nhân công tác là chấp nhận tính mạng mình, còn sống sót để trở về thì thật là quá may mắn, hơn 40 năm trước, chiến tranh đã đến với người dân miền Nam Việt Nam như một thứ quái thai được mùa, sinh sôi nẩy nở và lan tràn khắp mọi nơi trên những dải đất điêu tàn của một quê hương đã qúa đỗi đọa đầy, vì lý tưởng tự do và sự sống còn của quốc gia dân tộc.
Những Anh Hùng của thế hệ trước đã tình nguyện trở thành những người quân nhân Biệt Kích Lôi Hổ.
Đầu đội trời chân đạp đất, các Anh đi làm những chuyện lấp bể vá trời với nhiệm vụ dò thám nơi đất địch để thu thập và phối kiểm tin tức tình báo quân sự, bắt cóc các yếu nhân của địch.
Tiếp cứu các phi công bạn và đồng minh, tiềm ẩn cùng phá hoại những mục tiêu quan trọng trong thượng và hạ tầng cơ sở của VC ngay tại đất Bắc, dọc theo hải phận Bắc Việt, nơi biên giới Việt-Miên-Lào và đường mòn HCM, và ngay cả tại những mật khu "bất khả xâm phạm" của địch nằm sâu trong nội địa miền Nam Việt Nam.
Chẳng mấy ai muốn làm những việc này mà nếu có thì không phải ai trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cũng làm được, thế nhưng Biệt Kích Lôi Hổ đã làm được!
Đây là cả một chuỗi cố gắng không ngừng nghỉ, được kết hợp bởi những sự chịu đựng và hy sinh vô bờ bến, kéo dài suốt từ đầu thập niên 60 cho tới ngày tàn cuộc binh đao với biết bao nhiêu xương máu đã âm thầm đổ xuống của những người Biệt Kích còn sống hay đã chết.
Người lính Biệt Kích Lôi Hổ Nha Kỹ Thuật đã phải âm thầm chiến đấu trong cô đơn cùng với mồ hôi nước mắt và của chính mình để bảo vệ tổ quốc.
📷
TƯỞNG NHỚ
(Nén hương lòng, kính dâng những Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hoà
đã anh dũng hy sinh cho chính nghĩa, cho Tổ Quốc Việt Nam
Riêng tặng những Biệt kích quân Lôi Hổ)
Lòng tôi, một nén hương, thành kính
Xin thắp và xin tưởng nhớ Người
Hỡi những Anh Hùng dân tộc Việt
Máu xương Anh hiến dựng xây đời
Vì yêu dân, nước nên Anh nhận
Trách nhiệm người trai buổi nhiễu nhương
Tôi cảm ơn Anh, tôi ngưỡng phục
Tấm lòng son sắt với quê hương!
Anh đem dũng cảm, đem kinh lược
Chiến đấu, Anh ngăn bước giặc thù
Nguy hiểm không sờn, không nhụt chí
Cho dầu gục ngã giữa âm u ...
Dakto, An Lộc hay Rừng Sát
Quảng Trị, Pleime hoặc Hạ Lào
Anh đã hào hùng trong chiến thắng
Hào hùng trong cả bước gian lao!
Từ bờ Bến Hải xuôi Đồng Tháp
Có dấu chân Anh khắp bốn vùng
Xương máu Anh trong từng mạch đất
Trong từng nhịp thở của non sông!
Hồn Anh hoà với hồn sông núi
Dẫu chẳng bia xanh, chẳng sử vàng
Nhưng đã muôn đơì dân tộc Việt
Nhớ ơn bồi đắp, giữ giang san!
Trong từng giọt nước, từng thân cỏ
Phảng phất như Anh đã mỉm cười
Có tháng Tư nào loang máu đỏ
Quê buồn như mắt lệ Anh rơi !!!
Tháng Tư, ôi tháng Tư oan nghiệt
Ai xé mà tan những mảnh đời
Những gói poncho không đất phủ
Những đau buồn muôn kiếp khôn nguôi
Tháng Tư, ôi tháng Tư đau xót
Có những người trai chết vội vàng
Và có những người không sống nhục
Chọn cho mình cái chết vinh quang!
Anh hy sinh thế vì dân, nước
Tôi biết ơn và thương tiếc anh
Anh, đã Anh Hùng dân tộc Việt
Cho dù hoang mộ có VÔ DANH !
Ngô Minh Hằng

 

Tình Huynh đệ NHA KỸ THUẬT (Xin gửi tặng TH/NKT)


 Vừa qua TH/NKT có tổ chức quyên tìên đóng góp để cứu trợ anh em tại VN, tôi có làm bài thơ sau đây nhờ Hòa đăng trên trang FB của Hòa.

Tình Huynh đệ NHA KỸ THUẬT
(Xin gửi tặng TH/NKT)
Cuộc chiến xưa mờ dần trong trí nhớ
Sao chúng ta vẫn bịn rịn bên nhau
Quê hương này còn đâu để nhắc nhở
Tình đơn vị không dễ bị lãng quên.
Lôi Hổ, Hắc Long một thời chiến đấu
Qua bao khói lữa, sống chết không sờn
Tình Nha Kỹ Thuật đệ huynh thắm thiết
Nữa thế kỷ qua thương nhớ vẫn còn.
Tôi bên ni nhớ về anh bên nớ
Chiến trường xưa bao kỷ niệm khó quên
Ngoài tình đơn vị, còn nghĩa bạn bè
Anh khốn khổ tôi không quên giúp đở.
Tại quê nhà đại nạn đang tàn phá
Chiến hữu xưa trãi qua nhiều khó khăn
Bạn bè, hậu duệ chung nhau cứu trợ
Một phần nào làm dịu nỗi khổ đau.
Đã là huynh đệ, không còn cách biệt
Tuổi đã già mọi sự để qua đi
Còn bao năm hảy sống xa phiền não
Bạn bè đồng đội mang trọn niềm vui.
( 25 tháng 9 năm 2021)
Lữ Triệu Khanh
North Carolina
NKT/BTTM
(1961-1975)

Huế mơ về kỷ niệm - Phương Lâm Ngôn Nguyễn

Kính tặng cựu học sinh trường Thiên hựu Huế
Niên trưởng cựu Tr/Tá Lữ triệu Khanh NKT

Mưa chi thâm trầm rứa Huế ơi
Suốt tuần ny không thấy mặt trời
Thượng nguồn nước sỉa sông Hương ngập
Dập dìu lau sậy bập bềnh trôi

Từ nội thành ra cổng Ngọ môn
Ngang qua cửa miếu thờ âm hồn
Nước lụt lắp xắp ngang đầu gối
Phận người chẳng khác lụt nổi trôi

Thương quá đi thôi tuổi mười lăm
Từ nhà tới cửa Providence
Trong lưng không có xu dính túi
Thừa phủ đò ngang đứng ngậm ngùi

Làm sao quên được quãng đời thơ
Những chiều đứng đợi dưới trời mưa
Chờ người nghiêng nón cùng chung bước
Tặng mối tình câm tuổi học trò

Huế muôn đời Huế vẫn mộng mơ
Kỷ niệm hằn sâu tuổi học trò
Nhớ thương xin gởi về bên nớ
Tâm tình gói trọn mấy dòng thơ

Biết ngày nào trở lại Huế mơ
Ngắm hàng liểu rủ Tịnh Tâm hồ
Ước mong phủi sạch màu sơn đỏ
Cho Huế muôn đời Huế mông mơ .

Phương Lâm NN.

 

  1. NT Lữ Triệu Khanh North CarolinaMarch 18, 2022 at 5:49 PM

    Tôi chuyển cho Hòa bài thơ cũa anh Ngôn (Thương Lâm) viết tặng cho tôi, cách đây gần 7 năm. Tôi vẫn giử làm kỷ niệm. Tùy Hòa có muốn đăng vào FB để anh em đọc cho vui.

    Chú thích: Tôi có tên thăng cấp Tr/tá vào năm 1975 nhưng chưa đươc mang cấp bậc sau 7 năm Th/tá (1968) trong suốt thời gian làm CVP cho Đ/tá Nu. Do đỏ, Ngôn nghĩ rằng tôi dã thăng câp Tr/tá. Kể cả Tr/tá Vinh CSV/SHCTV cũng hỏi tôi như vậy lúc đầu tiên gặp tại Denver trong dịp thăm Th/tá Tựu. Tôi được thăng cấp rất nhanh từ Th/úy lên Thiếu tá trong vòng 4 năm trong thời gian Đ/tá Hổ. Không phải Đ/tá Nu không muốn đề nghị thăng cấp cho tôi nhưng vì cấp bậc cho chức vụ CVP/GĐ là Th/tá. Dến năm 1974, Đ/tá Nu bổ nhiệm tôi làm Chủ Sự (TP) Phòng HQHL và đề nghị lên Tr/tá.

    Khanh.

    ReplyDelete
  2. Thân gửi anh Khanh
    Cám ơn anh đã nhắc đến tôi trong blog của Hòa,nhắc lại chuyện đã qua,.Tháng 01 Năm 1971 tôi được vinh thăng. Th/Tá khi đó tôi dang thụ huấn khoa tình báo cao cấp tại Fort Holabirt Maryland Hoa Kỳ ,anh đã gửi cho tôi lênh thăng cấp và cặp lon Th/tá mói tinh, tôi đã copy lệnh thăng cấp gửi cho ban giám đốc trường và họ đã tổ chức lễ gắn lon mới cho tôi,sau khi tôt nghiệp về phuc vụ trong chương trình đặc biêt của DCT/68 .Tôi nhớ lại năm 1974 ,khi một biến cố xây ra cho DCT/72 cướp đi mạng sống vị CHT và vài SQ trược thuộc,ĐT giám đốc tìm người thay thế,anh cũng đã đưa tên tôi ,thời điểm này thâm niên cấp bực của tôi cũng trên 4 năm rồi va tôi đang giữ CHP/DCT68 ,sau khi xét hồ sơ ĐT giám đốc đã chính thức đề cử tôi ra nhận chức CHT/DCT/72,thời gian này,DCT cũng gặp nhiều khó khăn,yểm trợ cua đòng minh không còn nữa,
    Chiều tối 28/03/1974 ĐN thất Thủ DCT72 ket lại,May cho đoàn khỏang 80% quân số cũng tìm được lối về lại SG an toàn, ket lại số toán hành quân trong vùng ,
    Chiều Tối 29/04/75 SG di tản DCT 72 đã cùng bộ chỉ huy SCT cung vài đòan trực thuộc di tản ra VŨng Tầu và được Hạm Đội 7 di tan qua MỸ Chấm dứt cuộc đời quân ngũ và khởi đầu cuộc sống lưu vong từ đây ,,Suy nghĩ lai có thể nhờ may mắn của DCT/72 "9 nút"nên may mắn còn ngồi đây nhắc lai chuyện cũ với anh vá cám ơn anh ,nay mình đã bước vào U90 rồi,mong gặp lại anh khi thuận tiện trước khi quá trễ nha
    Chúc Anh chị và gia đình bình an
    Tuu Nguyen

    ReplyDelete
  3. Khanh Lu
    Nhiều anh em gọi tôi Tr/tá nên nói lại cho rõ mà thôi. Quá khứ đã qua từ lâu và đời quân ngũ đã là dĩ vãng xa vời. Cấp bậc và chức vụ đâu còn giá trị gì. Hy vọng vẫn giữ tình chiến hữu và bạn bè cho đến cuối cuộc đời mỗi khi nhắc lại đơn vị thân yêu cũa chúng ta là NKT/BTTM/QLVNCH.