Tuesday, September 30, 2025

On this day in U.S. Army history......30 Sept. 1962:

Headquarters, U.S. Army Special Forces Vietnam (Provisional) (USASFV (P) activated in Saigon, South Vietnam. Col. George C. Morton and seventy-two 5th SFG personnel formed the nucleus of the unit.
On October 15, 1962, twenty-four Special Forces detachments from 1st, 5th and 7th SF Groups were serving in South Vietnam. At the time, detachments were in a temporary duty (TDY) status, six-months only, until the fall of 1964, when assignments become a one-year permanent change of station (PCS) to Vietnam.
7th SFG (A) was active early in the Vietnam War, first operating in Laos (Operation White Star), and later in other global Cold War operations in addition to Southeast Asia (Laos, Thailand, and South Vietnam).
*********************************************************************
Bộ Chỉ Huy, Lực lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ tại Việt Nam (Tạm thời) (USASFV (P) được thành lập tại Sài Gòn, Nam Việt Nam. Đại tá George C. Morton và bảy mươi hai Quân nhân thuộc Liên Đoàn 5 Lực lượng Đặc Biệt đã hình thành của đơn vị. Vào ngày 15 tháng 10 năm 1962, hai mươi bốn toán đặc nhiệm từ các Liên Đoàn 1, 5 và 7 đang phục vụ tại Nam Việt Nam. Vào thời điểm đó, các Liên Đoàn đang ở trạng thái công tác tạm thời (TDY), chỉ sáu tháng, cho đến mùa thu năm 1964, khi các nhiệm vụ trở thành thay đổi trạm thường trực một năm (PCS) tại Việt Nam. Liên Đoàn 7 Lực Lượng Đặc Biệt (A) hoạt động sớm trong Chiến tranh Việt Nam, đầu tiên hoạt động tại Lào (Chiến dịch Ngôi sao Trắng), và sau đó tham gia các hoạt động khác trên toàn cầu trong Chiến tranh Lạnh ngoài Đông Nam Á (Lào, Thái Lan và Nam Việt Nam).

Sunday, September 21, 2025

Saturday, September 20, 2025

TOÁN BIỆT KÍCH GEORGIA CÂU CHUYỆN ROBERT SULLIVAN

Một người đàn ông chưa chết cho đến khi chìm vào lãng quên

Và phần buồn nhất trong sự mất mát - Những trẻ em phải trả giá nặng nề nhất… để tìm lại những kỷ niệm về người cha… những người biết về người quân nhân yểu mệnh…  Những gì gần gủi nhất mà các em để lại cho những người cha.

Xin chào,

Tôi là con gái lớn nhất của Robert J. Sullivan, tên tôi là Katheleen Sullivan. Quý ông có thể cho tôi biết thêm về trường hợp mất tích trong lúc chiến đấu của cha tôi? Tôi mất cha lúc còn bé, chưa hề biết tại sao, mất như thế nào? Đó là những câu hỏi làm tôi băn khoăn trong những năm dài. Tôi chỉ nhớ gia đình sống trong căn cứ Fort Bragg (Bộ Tư Lệnh sư đoàn 82 Nhẩy Dù Hoa Kỳ và Bộ tư lệnh LLĐB/HK) từ năm 1963 đến năm 1967. Nếu qúy ông có hình ảnh hoặc những câu chuyện về cha tôi để chia xẻ, tôi sẽ rất lấy làm vinh hạnh và cám ơn.

Chân thành cảm ơn

Kathleen Sullivan

Boise State University

Một người đàn bà gìa, đã lớn tuổi, gục đầu trên một bảng tên khắc trên Bức Tường Việt Nam, than khóc khe khẽ “Tôi là người mẹ đã cho anh ta chào đời. Tôi là người đã nuôi dưỡng anh ta.” Người mẹ trẻ năm xưa giờ đây đã già trước tuổi vì thời gian và đau thương, nói rằng bà ta đã cho người quân nhân vắn số tất cả tình thương cùng mấy đưá con gái và một con trai (cháu nội). Một người con gái nhớ lại, đám cưới của cô ta phải ngưng lại vì người yêu tử trận, không lấy được xác. Tôi đứng run rẩy khi những luồng gió đông thổi qua rặng cây như thầm nói với tôi “Tôi không ở đó, Tôi không chết.”

Những ngón tay tôi lướt qua dẫy 23E hàng 63. Cặp mắt tôi đầy nước mắt phản chiếu những hình ảnh đã đi vào trong tiềm thức. Một người lính LLĐB/HK trẻ đang nhìn tôi, với nón “bo” (bonnie hat), quần áo ngụy trang da hổ. Nhưng không chỉ một mình anh, Sam Almendraiz cũng đứng đó, nhìn qua vai phải của anh và hai người lính trẻ biệt kích Nùng nữa. Tôi nói khẽ “Sully (Sullivan), tôi không biết anh cũng ra đây. Nhưng sự mất mát của anh đã để lại trong tim tôi một vết thương”

Sullivan, từ East Alstead, New Hampshire là một quân nhân liên đoàn 5 LLĐB/HK phục vụ trong đoàn Nghiên Cứu Quan Sát (SOG), một đơn vị chuyênvề các hoạt động bí mật trong vùng Đông Nam Á châu.

Sáng sớm ngày 10 tháng Bẩy năm 1967, toán biệt kích Georgia gồm có: Samuel Almendariz, Harry D. Brown, Robert J. Sullivan và tám biệt kích quân người Nùng, ngồi trên trực thăng chở quân (Slick) bay luớt qua những cánh rừng già giữa hai nước Lào và Nam Việt Nam. Khung cảnh rừng núi ở dưới thật đẹp, Sullivan cũng như những người khác trong toán biệt kích thích thú quên sự nguy hiểm, tử thần đang chờ đón họ.

Hợp đoàn trực thăng bay qua những rặng núi đáp xuống một khoảng đất trống cỏ tranh cao gần mục tiêu Golf-6, đường 922. Toán biệt kích xuống trực thăng, di chuyển về hướng đông, khi đi ngang qua một giòng suối nhỏ, họ dừng lại lấy đầy nước cho mấy bi đông mang theo rồi nghỉ ăn trưa. Sau khi nghỉ ngơi, toán Georgia tiếp tục di chuyển lên một ngọn đồi, băng qua những bụi tre vào trong khu rừng. Biết chắc đã an toàn, trưởng toán Almendariz gọi máy báo cáo “Yên tĩnh” lúc 18 giờ 30 (6:30). Từ vị trí này, toán biệt kích có thể quan sát đoạn đường chính trên đường mòn HCM, ra khỏi nước Lào chạy vào thung lũng A Shau, một khu vực có nhiều đơn vị chính quy Bắc Việt.

Ngày hôm sau 11 tháng Bẩy, toán biệt kích đang di chuyển đến một vị trí khác, họ trông thấy đường dây điện thoại của địch. Almendariz ra lệnh cắt dây điện thoại, rồi di chuyển theo đường dây đến một điểm cao trên một ngọn đồi gần đó. Trên đồi có cỏ cao, nhiều dây leo, cây cỏ rậm rạp, toán biệt kích quyết định ở lại lập tuyến phòng thủ qua đêm để ngày hôm sau đi tiếp.

Brown nói rằng, khoảng giữa buổi sáng ngày 12, một trung đội lính Bắc Việt tấn công toán biệt kích Georgia bằng súng tiểu liên AK-47 và lựu đạn “Hai người lính biệt kích Nùng  chết ngay tức khắc, tôi bị thương vì mảnh lựu đạn”. Brown bắn trả lại địch quân, một biệt kích Nùng bắn ra một qủa đạn M-79 để im tiếng súng của địch trong giây lát. Toán biệt kích nhanh chóng chạy xuống dưới chân núi, băng qua giòng suối nhỏ lên một ngọn đồi. Brown kể tiếp “Chúng tôi lên được khoảng 50 mét trên sườn đồi, Trung Sĩ Nhất Amendariz ra lệnh toán biệt kích dừng lại, cho đến khi liên lạc được với phi cơ FAC (Covey - điều không tiền tuyến, mạch sống của các toán biệt kích)”. Họ không liên lạc được với phi cơ FAC.

Sau đó Brown trông thấy người lính hướng đạo Bắc Việt đang di chuyển bí mật trong đám cỏ tranh cao, chỉ cách anh ta chừng 10 mét.  Brown đưa súng lên nhưng người lính Bắc Việt đã nhẩy xuống một hố rãnh và trưởng toán biệt kích Amendariz đã hai lần ra lệnh cho anh ta không được nổ súng. Lính Bắc Việt kéo đến tấn công. Brown kể tiếp “Lần tấn công này, cả hai người, Trung Sĩ Nhất Amendariz và Trung Sĩ Nhất Sullivan đều bị thương. Lúc đó tôi nhận thức rằng, chỉ còn một mình đang bắn trả lại địch quân, sáu biệt kích Nùng đã chạy, bỏ rơi ba quân nhân LLĐB/HK”… “Tôi báo cho Amendariz, Sullivan biết mấy người lính Nùng đã bỏ chạy và nói họ giữ im lặng vì cả hai đều rên la, đau đớn vì vết thương. Tôi bảo họ nằm bắn trả lại để địch quân tạm thời để yên ba quân nhân Hoa Kỳ”. Sau đó Brown băng bó vết thương nơi đùi cho Sullivan, còn Amendariz bị nơi lưng và xương hông, tôi không giúp gì được.

Địch quân tiếp tục tấn công và ba quân nhân Hoa Kỳ bắn trả lại làm cho lính Bắc Việt tiến lên không được. Lúc đó Brown đã bắt liên lạc được phi cơ FAC, yêu cầu phi cơ oanh kích cùng trực thăng triệt xuất toán biệt kích. Rồi một viên đạn AK-47 trúng vào tay cầm máy truyền tin, Brown phải xử dụng máy phát tín hiệu khẩn cấp (URC-10) liên lạc nhưng không được. Đạn súng AK-47 vẫn tiếp tục bay vào, một viên trúng mặt trưởng toán biệt kích Amendariz, chết tức khắc, Sullivan cũng trúng đạn chết, Brown bị thương nơi vai.

Tín hiệu cấp cứu nhận được, một trực thăng H-34 đáp xuống vị trí toán biệt kích. Trên trực thăng có Thượng Sĩ Billy Waugh, một quân nhân Mũ Xanh nổi tiếng, ông ta kể tiếp câu chuyện “Ngày 12 tháng Bẩy năm 1967, chúng tôi (căn cứ hành quân tiền phương Khe Sanh) nhận được tín hiệu khẩn cấp từ Hillsboro, phi cơ C-130 trang bị máy móc điện tử, radar bao vùng, cho biết một toán biệt kích trong hành quân Prairie Fire đã gửi tín hiệu khẩn cấp (từ máy URC-10), báo cáo toán biệt kích đã bị phân tán, hai quân nhân Hoa Kỳ đã tử trận.

Thượng Sĩ Skip Minnicks cùng với tôi lên chiếc H-34 bay đi tìm toán biệt kích (chưa biết rõ). Khi bay trên không phận có tọa độ bắc-16 độ 16, và đông-106 độ 57, 40, chúng tôi nhìn xuống trông thấy đạn lửa xanh (đạn lửa vũ khí của Mỹ mầu đỏ) bay về hướng một hố bom, trong đó có một quân nhân Hoa Kỳ nằm tránh đạn cùng với gương phản chiếu và tấm pa nô cho phi cơ trông thấy. Khi nghe tiếng trực thăng, anh ta đưa tấm pa nô lên làm dấu hiệu.

Chiếc trực thăng H-34 cố gắng đáp xuống mặc dầu bị trúng nhiều đạn súng cá nhân, không nhìn thấy hố bom có Brown (bị mất dấu khi xuống thấp và lo tránh những làn đạn của địch), nhưng trông thấy một hố bom gần đó có mấy biệt kích Nùng đang trú ẩn. Chiếc trực thăng cứu được năm biệt kích Nùng cùng với người bị thương đưa về Khe Sanh. Sau đó bay trở lại với phi công VNCH Nguyễn Văn Hoàng (phi đoàn lừng danh 219  trong quân sử đơn vị SOG  – Kingbees) và Thượng Sĩ Minnicks. Chiếc H-34 thả dây kéo được Trung Sĩ Nhất Harry Brown lên trực thăng, giữa những lằn đạn của địch. Màn đêm buông xuống ngày 12 tháng Bẩy. Suốt đêm, một phi cơ Covey (FAC) cùng với một quân nhân đơn vị SOG lên bao vùng. Phi cơ C-130 Hillsboro cũng dò tìm những tín hiệu khẩn cấp từ dưới đất. Nhưng không nhận được tín hiệu nào.

Một toán biệt kích cấp cứu Bright Light được đưa vào ngày 13/14 tháng Bẩy năm 1967, tìm dấu vết hai quân nhân Hoa Kỳ, Amendariz và Sullivan, không thành công. Các toán Bright Light tiếp tục tìm kiếm trong vòng một tuần lễ, nhưng vẫn không có kết qủa.

Tim Kirk, một quân nhân trong toán Bright Light nhớ lại “Địch quân có nhiều ổ súng dọc theo đường 922 đổ vào. Chúng tôi xâm nhập vào một triền núi bên cạnh nơi chạm súng mấy hôm trước. Ngay tức khắc, toán biệt kích bị bắn tới tấp, không thể di chuyển được. Một đơn vị Khai Thác (Hatchet Forces) được đưa vào nơi chạm súng cũng không tìm được dấu vết của hai quân nhân Hoa Kỳ để lại.”

 … Tôi đưa tay sờ lên mặt đá của Bức Tường Việt Nam, nơi ghi khắc tên anh Sullivan… Dường như có tiếng anh nói khẽ bên tai “Đừng đứng nơi mộ phần than khóc. Anh không có ở đó đâu. Anh không chết…


Người viết: Ray Davidson

American University of Nigeria

Computer Science Department

Yola, 4-10-2014

vđh

 


 

LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆT NAM


 I.    LỜI GIỚI THIỆU.

     Kể từ lâu, năm 1957 đã có quân của LLĐB/HK tại Việt-Nam, lúc đó họ chỉ làm nhiệm-vụ huấn-luyện, cố-vấn và giúp-đỡ quân-đội VNCH. Các biệt-kích mũ xanh phải tình nguyện hai lần, lần đầu học nhẩy dù và sau đó học về LLĐB. Trong năm 1957, ngày 24 tháng sáu, liên-đoàn 1 LLĐB được thành lập tại Okinawa và gửi sang Việt-Nam huấn luyện cho 58 quân nhân Việt-Nam tại Trung-tâm huấn-luyện Biệt-Động-Đội ở Nha-Trang. Những sĩ quan thụ huấn đó sau này trở thành huấn luyện viên hoặc cán bộ nồng cốt cho các đơn-vị đầu tiên của LLĐB/VN. Mười năm sau LLĐB cố-vấn và yểm trợ cho hơn 40.000 Dân-sự Chiến-đấu, hoạt động trên khắp lãnh thổ miền nam Việt Nam.

  II.    PHÁT TRIỂN.

    Trong năm 1959, 1960 với sự bành trướng của Việt cộng, gia tăng các vụ phá hoại, khủng bố gây nên tình trạng bất an nơi thôn quê, hẻo lánh. Quân đội Hoa Kỳ gửi thêm ba mươi huấn luyện viên LLĐB từ căn cứ Fort Bragg sang nam Việt Nam để tổ chức một chương trình huấn luyện cho QLVNCH.

    Ngày 21 tháng chín 1961, tổng-thống John F. Kenedy tuyên bố sẽ tăng thêm ngân khoản viện trợ quân-sự, kinh tế cho Việt Nam. Chính quyền Hoa-Kỳ lo ngại về vấn đề xâm nhập người và vũ-khí của  quân cộng-sản vào miền nam, do đó phải tìm cách ngăn chặn sự xâm nhập này. Các toán A  Lực-lượng Đặc-biệt được giao phó cho trách nhiệm tổ chức và huấn-luyện những dân-tộc thiểu-số phá hoại, ngăn chặn đường xâm nhập của địch từ bắc vào nam. Về sau những lực lượng võ trang này được gọi là Dân-sự Chiến-đấu.

 Description: lldb2

                     Phù hiệu binh chủng LLĐB/VN

    Liên-đoàn 5 LLĐB/HK được gửi sang Việt Nam và hoàn toàn chịu trách nhiệm cho các hoạt-động, hành quân đặc biệt tại miền nam. Lực-lượng Đặc-biệt  được Lục quân Hoa-Kỳ tổ chức nhằm thích ứng cho các cuộc hành quân ngoại lệ và đã được định nghiã như  ‘ba khía cạnh liên-hệ trong du-kích chiến, trốn tránh và đào tẩu, gậy ông đập lưng ông chống lại kẻ thù’. Chiến tranh ngoại-lệ được định nghiã như sau ‘ Hoạt động ngay  trong lòng địch, hoặc những nơi địch kiểm soát’.

    Cơ-cấu tổ chức căn bản của Liên-đoàn Lực-lượng Đặc-biệt gồm có một bộ chỉ huy đầu não, ban chỉ huy các đại đội, ba đại-đội  hoặc nhiều hơn, một đại đội truyền tin và một phi-đoàn yểm trợ. Các bộ, ban chỉ huy gồm đủ các ban tham-mưu để chỉ huy và theo-dõi, thêm phần quân-y,  và đơn vị tiếp-tế thả dù. Đại-đội LLĐB  thường do một sĩ-quan cấp bậc trung-tá chỉ huy, thường gồm có một ban tham-mưu và một BCH hành-quân C, bộ chỉ huy này sẽ chỉ huy ba BCH/HQ  B, mỗi BCH/HQ  B sẽ chỉ huy bốn toán A. Toán A là một đơn-vị căn bản mười hai người của LLĐB.

 III.   LỰC LƯỢNG DÂN SỰ CHIẾN ĐẤU.

    Có hai lý do cho việc tổ chức DSCĐ. Người Hoa Kỳ tin rằng nên võ trang nhóm dân tộc thiểu số để chống lại sự xâm nhập của quân cộng-sản. Lý do thứ hai, người Thượng và các sắc dân thiểu số là mục tiêu chính cho chủ thuyết tuyên truyền của cộng-sản, họ không hài lòng về chính quyền quốc-gia, rất dễ bị địch lợi dụng, tuyển mộ.

    Vào tháng Chín 1962, bộ chỉ huy LLĐB tại Việt-Nam được thành lập và trực thuộc Bộ Chỉ-Huy  Quân-Viện. Đến tháng mười 1962, có tất cả hai mươi bốn toán LLĐB/HK hoạt động trên miền nam Việt-Nam. Tháng mười một 1962, LLĐB/HK tại Việt-Nam được tổ chức gồm có một BCH  C, ba BCH  B và hai mươi sáu toán A. Ngoài ra còn có một bộ chỉ huy đặt tại Saigon. BCH  C  không làm việc bình thường trên phương diện chỉ huy, điều hành mà làm nhiệm-vụ như  phần mở rộng của BCH trung-ương.

    Trong thời gian từ tháng mười hai 1962 đến tháng hai 1963, BCH/LLĐB/HK hoàn toàn chịu trách nhiệm chỉ huy các hoạt động của các toán A tại Việt-Nam. Lúc đó các toán A  đã thiết lập các trại Dân-sự Chiến-đấu trên khắp bốn quân khu. Một BCH  B được thành lập trên mỗi vùng chiến thuật để phối hợp với hệ thống chỉ huy của QLVNCH và chỉ-huy các toán A. Các toán A được xử dụng tạm thời lấy từ Liên-đoàn 1 từ Okinawa, và Liên-đoàn 5, 7 LLĐB từ Fort Bragg, North Carolina. Đến tháng mười hai 1963, các toán A phối hợp với LLĐB Việt-Nam  đã huấn-luyện và võ trang cho 18000 người thuộc lực lượng xung-kích và 43000 người phòng vệ dân-sự. Tháng hai 1963, bộ chỉ huy LLĐB/HK từ Saigon dời đi Nha-Trang do hai điều thuận-lợi, thứ nhất, Nha-Trang nằm vào khoảng giữa từ vĩ-tuyến 17 đến cuối miền nam, dễ điều hành các toán A nằm rải rác khắp miền nam Việt Nam. Thứ hai, vị trí nơi biển dễ nhận đồ trang bị, tiếp liệu đến từ Okinawa và phi trường, đường xá có sẵn cho vấn đề tiếp vận.

    Cuối năm 1964, Lực lượng Dân-sự Chiến-đấu không còn là vấn đề phát triển nữa. Mục đích và nhiệm vụ cũng thay đổi, không ngoài việc phòng-vệ xóm làng, các trại DSCĐ được xử-dụng làm căn cứ cho các cuộc hành quân tấn công vào sào huyệt địch. Sự thay đổi lớn thứ hai nhằm tăng phần hiệu qủa cho việc kiểm soát biên giới, LLĐB/HK xây thêm một số trại Biên-phòng. 

    Trong cuộc hành quân Switchback (11-62 đến 07-62), các hoạt động tấn công thuộc lực lượng xung-kích DSCĐ bao gồm phục-kích, tuần-tiễu, thám-sát trong khu vực trách nhiệm của mỗi trại. Ngoài ra những cuộc hành quân phối hợp với các đơn-vị VNCH bao gồm LL/DSCĐ thuộc nhiều trại. Trong tháng sáu, bốn đại đội xung kích DSCĐ lấy từ các trại Đak-To, Plei-Mrong và Polei Krong phối hợp hành quân lùng địch.

    Quân cộng-sản phản-ứng bằng cách pháo kích, quấy rối các trại biên-phòng. Trong cuộc hành-quân Switchback, các hoạt-động địch gia tăng, hầu hết các trại đều bị bắn quấy rối. Ngày 3 tháng giêng 1963, đặc-công cùng hai đại-đội CSBV tấn công và tràn ngập trại Plei-Mrong. Vấn đề phòng thủ các trại biên-phòng được xét lại, Bộ chỉ-huy Quân Viện ra lệnh cho các toán A thiết lập thêm tuyến phòng thủ thứ hai cho tất cả các tiền đồn. LLĐB/HK được tăng cường thêm hai tiểu-đoàn Công-binh Hải-quân (Seabee)  phụ gíup trong việc xây cất.

    Việc xử-dụng LL/DSCĐ bao gồm các hoạt động tuần-tiễu, lục soát ra ngoài phạm vi trách nhiệm của trại thường cần có những căn cứ tiền phương và lực lượng tiếp-ứng. Một lực lượng xung-kích 20000 quân được thành lập bắt đầu từ tháng mười một 1963 và hoàn tất vào tháng bẩy năm 1964. Mỗi đại đội DSCĐ có 150 người  gồm bộ chỉ huy 10 người và ba trung đội khinh-binh 35 người, trung đội súng nặng 35 người. Mỗi trại có quân số bốn đại đội. Hai đại đội hoạt động bên ngoài từ những căn cứ tiền phương, tung các trung đội và các toán viễn-thám năm người ra hoạt động.

    Vào tháng giêng 1965, trước khi Hoa-Kỳ đem thêm quân vào chiến trường miền nam. Kế hoạch chống xâm nhập được xác định rõ ràng gửi đi từ bộ chỉ huy liên-đoàn 5 LLĐB/HK tới các BCH  B và các toán A như sau:

    Định nghiã: Kế hoạch chống xâm nhập của LLĐB là một chương trình hỗn hợp quân-sự và dân-sự vụ, được tổ chức nhằm thực hiện các mục tiêu sau đây: (a) Loại trừ Việt cộng, thiết lập vùng an-ninh. (b) Bảo đảm sự kiểm soát của chính quyền quốc gia đối với dân trong vùng. (c) Động viên những người dân hăng hái, sẵn sàng tham gia trong các chương trình của chính quyền quốc gia.

   Những mục tiêu nói trên có thể đạt được khi thi hành một trong ba nhiệm vụ sau: (1) Kiểm soát và theo dõi biên-giới. (2) Hoạt động nơi các đường xâm nhập. (3) Hành quân nơi chiến khu, căn cứ của địch.

    Bắt đầu từ năm này, quân cộng-sản đã thay đổi chiến thuật từ du-kích sang trận-địa chiến. Các hoạt động của LLĐB được phân làm ba loại. Một, thiết lập thêm trại DSCĐ nhằm ngăn chặn mức độ chuyển quân, tiếp vận của địch, bỏ một số trại do áp lực quá nặng của địch và phòng thủ các trại dọc theo biên giới như A-Shau, Lang-Vei, Cồn-Thiên, Lộc-Ninh, Bù-Đốp.

    Thứ hai, mở các cuộc hành quân ngoại lệ như Hành-quân Delta trong vùng I chiến-thuật. Hành quân Black-Jack 33  ở vùng III trong kế-hoạch Hành-quân Sigma. Đây là cuộc hành quân đầu tiên phối hợp giữa đơn-vị du-kích lưu-động và đơn vị xung-kích tiếp-ứng. Hành-quân Black-Jack 41, hai đại đội xung-kích lưu động nhẩy dù xuống tấn công căn cứ địch trong vùng núi Thất Sơn dưới vùng IV. Một đơn-vị xung-kích khác tảo thanh nơi Suối Đá trong vùng III loại khỏi vòng chiến một tiểu-đoàn Việt cộng trong hành quân Attleboro.

    Cuối cùng là những cuộc hành quân phối hợp với các đơn vị chính-quy bạn. Hành quân Nathan Hale phối hợp giữa DSCĐ, sư-đoàn 1 Không-Kỵ và sư-đoàn 101 Dù Hoa-Kỳ. Hành quân Henry Clay và Thayer. Hành quân Rio Blanco ở vùng I bao gồm các đơn-vị thuộc DSCĐ, Điạ-phương-quân, Biệt-động-quân Việt-Nam, Thuỷ quân lục chiến Đại-Hàn, và TQLC/HK. Hành quân Sam Houston trên vùng II phối hợp giữa sư-đoàn 4 Bộ-binh Hoa-Kỳ và DSCĐ.

 IV. HÀNH QUÂN NGOẠI LỆ.

    Với sự  thành lập  các đơn-vị du-kích lưu-động và Hành-quân Sigma, Omega trong thời gian từ tháng tám cho đến tháng mười năm 1966, khả năng về  Chiến-tranh Ngoại-lệ của LLĐB gia tăng. Một trong những đặc tính của LLĐB là khả năng mở các cuộc hành quân ngắn hoặc lâu dài nơi vùng địch kiểm soát.

    Lực-lượng Du-kích lưu-động được thành lập vào mùa thu 1966, cải tiến và phát triển từ quan niệm về đơn-vị xung-kích lưu-động. Những đơn-vị du-kích này được tổ chức, huấn-luyện và trang-bị để hoạt-động xa, nơi Việt cộng hoặc Bắc quân xem như thiên-đàng. Trang bị nhẹ, các quân nhân thuộc đơn-vị này xâm nhập vào vùng địch, do-thám đường mòn, tìm kiếm dấu vết, căn-cứ địch, thâu lượm tin tức tình báo về những cuộc chuyển quân của địch. Khi phát giác ra nơi đóng quân của địch, toán du-kích sẽ theo dõi các hoạt động của địch, phục kích lẻ-tẻ, quấy rối, đặt mìn bẫy. Trường hợp tìm thấy kho tiếp liệu, toán sẽ tìm cách phá hủy hoặc hướng dẫn phi cơ oanh kích.

    Một đơn-vị du-kích thường được đưa vào vùng hoạt động bằng tất cả mọi phương tiện có sẵn. Khi đã vào vùng, đơn-vị thực sự trở nên du-kích quân. Đồ tiếp tế  được thực hiện qua không trợ. Đơn vị này thường hoạt động trong lòng địch một thời gian từ ba mươi đến sáu mươi ngày. Họ trở thành những ‘Chủ nhân ông’ trong khu vực hoạt động, được toàn quyền hành động kể cả vấn đề không trợ, để đạt mục tiêu. Để tránh bị lộ hành tung, đôi khi phải cho đồ tiếp tế vào bom Napalm giả do khu trục cơ A1E Skyraider thả xuống trong một phi vụ oanh-kích gỉa tạo.

    Ngoài việc phát triển đơn-vị du-kích cho mỗi vùng chiến thuật. Liên-đoàn 5 LLĐB/HK còn tổ chức thêm những cuộc hành quân ngoại-lệ khác như Hành-quân Omega và Sigma. Hai tổ chức hành quân trên làm tăng thêm khả năng viễn-thám, thâu lượm tin-tức tình báo của liên-đoàn ngoài tổ chức Hành-quân Delta đã có sẵn. Mỗi tổ chức có quân số khoảng 600 người, gồm một đơn-vị viễn-thám và một đơn-vị xung-kích tiếp-ứng, thêm một toán cố-vấn tổ chức như BCH  B của LLĐB.

    Hành quân Delta được đặt dưới quyền  chỉ huy hỗn hợp LLĐB Việt-Mỹ và theo lệnh trực tiếp của Bộ Tổng-tham-mưu QLVNCH và BCH Quân Viện Hoa-Kỳ (MAC-V). Các toán hành quân Delta được tiểu-đoàn 91 Biệt-cách-dù sẵn sàng làm lực-lượng tiếp-ứng yểm-trợ. Các toán hành-quân Omega và Sigma được LLĐB trực tiếp chỉ huy và chỉ chịu trách nhiệm hoạt động ngoài vùng I và II chiến thuật. Các toán này được các đơn vị xung-kích lưu-động thuộc lực-lượng DSCĐ yểm trợ.

 V.   HUẤN LUYỆN    KHÔNG TRỢ.

    Chương trình huấn-luyện cho các cuộc hành-quân ngoại-lệ trước hết là phần huấn luyện về bộ-binh, kỹ thuật tác chiến trong vùng Đông-nam-Á. Những quân nhân được tuyển chọn cho hành-quân ngoại-lệ thường đã trải qua thời gian phục-vụ trong lực-lượng DSCĐ và đã có kinh nghiệm chiến-đấu. Phần huấn luyện kỹ thuật hành quân ngoại-lệ bắt đầu từ giai đoạn này. Đầu tiên là phải qua khóa huấn luyện nhẩy-dù, sau đó là các môn học đặc biệt về hành quân như: di-chuyển lặng-lẽ, bí-mật, phương-pháp tìm dấu-vết, theo-dõi, cách xử-dụng bản đồ, điạ bàn, dụng-cụ làm dấu, những kỹ thuật xâm-nhập, triệt-thoái vùng thám-sát, hoạt-động, xử dụng các loại vũ-khí đặc biệt, cứu thương, kỹ thuật đột-kích, phục kích.

    Chương trình huấn luyện kéo dài năm hay sáu tuần-lễ, sáu ngày một tuần và khoảng mười tiếng đồng hồ mỗi ngày. Các buổi huấn luyện trong căn-cứ và thực tập ngoài bãi tập.

    Vấn đề hành-quân ngoại lệ rất cần phần không trợ. Phi đoàn không-yểm thuộc Lục quân Hoa-Kỳ biệt phái cho Liên-đoàn 5 LLĐB đã yểm trợ trực tiếp bằng những trực thăng võ trang và chuyển vận. Ngoài ra Không lực Hoa-Kỳ cung cấp phương tiện chuyển vận, đổ quân cấp đơn-vị lớn và về tiếp liệu. Không lực Hoa-Kỳ và Việt Nam còn yểm trợ thêm về phần oanh-kích hoặc chuyển tiếp công-điện qua hệ thống truyền tin. Ngoài vùng I chiến thuật, máy bay của Thuỷ quân Lục chiến Hoa-Kỳ cũng cung cấp những phương tiện yểm trợ tương tự.

   VI. SOẠN THẢO KẾ HOẠCH HÀNH QUÂN.

    Chiến tranh ngoại lệ là một vai trò rất quan-trọng của LLĐB trên chiến trường nam Việt Nam. Ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt, mỗi cuộc hành quân đều được soạn thảo, điều nghiên kỹ-lưỡng trước khi thực hiện và lực lượng  tham-dự được di chuyển đến căn cứ tiền phương trước khi ra tay. Thời gian dành cho soạn thảo kế hoạch, chuyển quân tuỳ theo mỗi loại hành quân và độ khẩn của cuộc hành quân.

    Soạn thảo lệnh hành quân bắt đầu với đầy đủ chi tiết tình báo về khu vực hành quân.  Mọi dữ kiện về điạ thế, thời tiết và những nơi tình nghi có quân địch đều được thâu thập và phân tích. Tất cả  những chi tiết đó đều được ghi trên bản đồ, những lộ trình chính và phụ cho nhiệm-vụ trinh sát đều được chọn lựa và đánh dấu. Nguồn tin tức thường được lấy từ các bản báo cáo về tình-báo, không ảnh, thẩm-vấn tù binh, và những bản báo cáo của các đơn-vị bạn đã hành quân qua trước đây. Nếu cần, ban tham mưu soạn thảo lệnh hành quân bay những phi-vụ thám thính khu vực hoạt động trước. Những chuyến bay này rất quan trọng cho quyết định cuối cùng chọn điểm xâm nhập, triệt xuất, chính và phụ.

    Khi việc soạn thảo, điều nghiên đã hoàn tất, lệnh hành-quân sẽ được ban ra. Kế tiếp là việc chuẩn bị hành quân, trường-hợp  cần thiết phải chuyển quân, vật liệu đến một căn cứ tiền phương đã có không yểm. Nếu chỉ là một toán nhỏ, ít vật liệu, phi cơ trực thăng của Lục quân, TQLC/HK hoặc phi-cơ nhỏ được xử dụng. Nếu cuộc hành quân  với quân số cấp đại đội hoặc lớn hơn sẽ được Không lực Hoa-Kỳ cung cấp với loại phi-cơ vận tải C-7A hoặc C-130.

    Khi đến căn-cứ hành-quân tiền phương, đơn-vị sẽ bị thanh-tra để có thể trong vị thế sẵn sàng. Các sĩ quan thuộc quyền sẽ được nghe thuyết trình  về mục đích, nhiệm-vụ của cuộc hành quân cùng vớí mệnh-lệnh chi tiết cho từng trung đội, tiểu-đội hoặc toán.

    Trong những nhiệm-vụ thám-sát, các phương-pháp, thủ tục cho mỗi hoạt-động sẽ được trình bầy chi-tiết tùy theo cuộc hành quân. Khi vào vùng địch, lúc ra khỏi phi-cơ, di chuyển trong khu vực hành quân, trường hợp chạm địch, và giờ giấc cho vấn đề triệt xuất.

    Sự thành công trong chiến tranh ngoại lệ tùy thuộc rất nhiều vào yếu-tố bất ngờ. Thêm vào phần an-ninh của toán biệt-kích, nhiều lúc cần phải tìm cách đánh lừa địch quân. Lừa đối phương cũng là một phần quan trọng trong các cuộc hành quân. Tùy theo tình hình, thời tiết, mùa màng và quân số trong cuộc hành quân  mà thực hiện các chuyến xâm nhập bằng đường bộ, không hoặc thủy. Tuy nhiên trên chiến trường Việt-Nam, hầu hết các cuộc xâm nhập, triệt xuất đều thực hiện bằng phương tiện trực thăng.

    Kinh nghiệm cho biết, thời gian hữu hiệu nhất để thả toán xâm nhập vào lúc trời sắp tối, đủ thì-giờ cho toán lẩn vào bóng tối và trực thăng được bảo vệ bởi bầu trời đen. Tuy vậy, địch quân vẫn khám phá ra phương pháp thả toán của ta và tìm cách đối phó. Do đó phải đánh lừa địch về  điểm thả quân, trực thăng sẽ đáp xuống ba chỗ hay hơn nữa  trước khi thực sự thả toán. Điều này làm cho địch phân-vân không biết đâu là điểm thả quân một cách chính xác. Một phương pháp khác là đoàn trực thăng ba chiếc bay thấp, nối đuôi nhau, chiếc bay đầu bất ngờ đáp xuống thả toán biệt-kích trong chớp nhoáng rồi bốc lên nhanh nối vào đuôi hai chiếc kia làm thành hợp đoàn ba chiếc trở lại.

    Trong trường hợp thả toán bằng đường bộ, các toán ‘Chạy đường mòn’ (Roadrunner), viễn thám xâm nhập vùng địch dễ dàng lúc trời tối hoặc ngay lúc ban ngày trong trường hợp căn cứ vẫn thường tung các toán ra tuần tiễu, lục soát mà không theo một phương hướng nhất định. Trong trường hợp khác, toán viễn thám đi xen vào với một  đơn vị lớn. Khi thấy an-toàn, toán biệt-kích  lặng lẽ di chyển đến vùng hoạt động đã được trao phó nhiệm-vụ từ trước.

    Tất cả mọi sự di-chuyển trong chiến tranh ngoại lệ đều được soạn thảo cẩn thận. Sự sống còn của một toán viễn thám nhỏ tùy thuộc vào mỗi cá nhân trong toán. Sự hiểu biết về nhiệm-vụ của từng người, đề cao cảnh giác, theo đúng thời khóa biểu lúc di chuyển. Trong kế hoạch hành quân đôi khi có dặn dò thêm trường hợp toán phải phân tán tạm thời trước áp lực của địch, thời gian, vị trí của điểm hẹn, tập-họp.

    Bí mật là đặc tính căn bản trong vấn đề  di chuyển của các đơn-vị hành quân ngoại lệ. Mặc dầu địch cũng đề phòng về sự hiện diện của biệt-kích quân, điều quan trọng là địch vẫn không biết rõ vị trí chính xác của toán. Mọi di chuyển phải  im-lặng, bàn tay và thủ hiệu được xử dụng để truyền tin và ban lệnh thay cho lời nói, ít xử dụng máy truyền tin và để độ âm-thanh tối thiểu, súng đạn đồ trang bị gọn gàng không gây tiếng động khi chạm vào cây lá hơặc đá và tuyệt-đối giữ im lặng khi di chuyển.

    Về  vấn đề tái tiếp tế cũng được đặt ra, các quân nhân trong chiến tranh ngoại lệ không thể mang theo đồ ăn, đạn dược và vật dụng quá năm ngày. Tùy theo mỗi cuộc hành quân, kế hoạch hành quân cũng nói đến vấn đề tái tiếp tế trong vòng từ ba đến năm ngày tại một địa điểm định trước. Vấn đề đặt ra là sự an-toàn, không để lộ vị trí của toán. Thả dù tiếp tế ban ngày sẽ làm cho địch báo động, đề phòng. Thả ban đêm  trong vùng rừng núi, cơ hội thâu hồi kiện hàng rất ít.

    Triệt xuất theo đúng hạn kỳ hoặc trong trường hợp khẩn cấp phải đem về một người bị tai nạn bất tử hay cả toán cũng phải tính trước. Lực lượng Đặc biệt rất thành công từ lúc đầu cho đến giữa năm 1967, hầu hết các toán đều thi hành nhiệm vụ đúng theo hoạch định, hết thời gian, ra điểm hẹn để trực thăng bốc đem về. Những toán ‘Chạy đường mòn’, viễn thám rất dẽ bị địch tiêu diệt do đó nhân-viên trong bộ chỉ huy có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của toán phải chuẩn bị sẵn sàng vấn đề triệt xuất toán trong vùng địch ngay tức khắc khi nhận được báo cáo ‘khẩn’.

 VII.   CÁC CĂN CỨ  / BỘ CHỈ HUY  LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT.

    B-50  LLĐB (HÀNH QUÂN OMEGA).

    Dựa trên sự thành công của các cuộc hành quân Delta và nhu cầu chiến trường, bộ chỉ huy B-50 Lực lượng Đặc biệt tổ chức Kế-hoạch Hành-quân Omega vào tháng bẩy năm 1966 và đặt tại Nha Trang. Hành quân Omega trực tiếp đảm nhận những cuộc hành quân viễn-thám, thâu thập tin tức tình báo tác chiến, tuy nhiên không như Delta trực thuộc bộ Tổng-tham-mưu và bộ tư-lệnh Quân-viện Hoa-Kỳ, hành quân Omega được thực hiện trên vùng I chiến thuật kể từ ngày 1 tháng chín năm 1967.

    B-50 LLĐB tuyển mộ các sắc tộc thuộc bộ-lạc người Jah, Rhade và Sedang, người gốc Chàm và Tầu. Ban đầu gồm có tám toán viễn-thám và bốn toán ‘Chạy đường mòn’, sau đó tăng lên mườI sáu toán viễn-thám và tám toán ‘Chạy đường mòn’. Trong năm 1968, các toán ‘Chạy đường mòn’ thuyên-chuyển qua B-57 LLĐB tiếp tục các hoạt động tuần tiễu lấy tin tức. Hành quân Omega có ba đại đội xung-kích làm thành phần tiếp ứng, trừ bị. Bộ chỉ huy B-50 chấm dứt nhiệm vụ tại Việt Nam vào tháng sáu năm 1972.

    B-51 LLĐB  TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN  ĐỘNG BA THÌN.

    Động-ba-Thìn là trung tâm huấn-luyện của QLVNCH. Đến năm 1964, bộ chỉ huy B-51 LLĐB đến cố vấn cho chương trình huấn luyện tại trung tâm. Nhiều chương trình huấn-luyện được cải tiến theo thời gian, khóa căn-bản LLĐB Việt-Nam, khóa học Nhẩy dù của LLĐB, huấn luyện cho DSCĐ, võ Tae Kown Do Đại-Hàn, truyền-tin và các khóa huấn luyện khác.

    Năm 1968, B-51 LLĐB dời các khóa huấn luyện đi An-Khê, nhưng đến tháng mười 1969 quay trở lại Động-ba-Thìn và căn-cứ được gọi là Trung-tâm Huấn-luyện Quốc-gia. Sau đó B-51 được Bộ chỉ huy Quân-viện giao cho nhiệm-vụ huấn-luyện quân-đội Campuchia. Bộ chỉ huy B-50 LLĐB rời Việt-Nam tháng ba năm 1971.

    B-52 LLĐB  HÀNH QUÂN DELTA.

    Vào tháng năm 1964, cơ-quan tình-báo CIA khởi đầu chương trình Leaping Lena dùng LLĐB/HK huấn luyện cho LLĐB/VN và lực-lượng DSCĐ trong những nhiệm-vụ thám-sát thâu-thập tin tức. Khi chương trình phát triển, nhu-cầu về nhân lực của LLĐB/HK tăng lên cho đến tháng sáu năm 1965, khi liên-đoàn 5 LLĐB/HK được giao phó thêm trách-nhiệm và bộ chỉ huy B-52 được thành thập để chỉ-huy và theo dõi các hoạt động viễn-thám. Chương trình này được gọi là Hành-quân Delta, mỗi toán thường gồm có hai quân-nhân LLĐB/HK và bốn LLĐB/VN, ngoại trừ các toán ‘Chạy đường mòn’ có từ bốn đến sáu quân nhân Việt, thường mặc quần áo, trang-bị như quân cộng-sản hoạt động trong vùng địch kiểm soát.

    Bộ chỉ huy B-52 vẫn thường thay đổi lề-lối làm việc, tổ chức tùy theo nhu-cầu đòi hỏi, mới đầu chỉ có mười hai toán viễn thám LLĐB Việt-Mỹ và mười hai toán DSCĐ ‘Chạy đường mòn’, một đại đội phòng thủ ngườI Nùng và tiểu-đoàn 81 Biệt-cách-dù với năm đại đội làm đơn-vị xung-kích tiếp ứng. Những nhiệm vụ được trao phó cho hành-quân Delta gồm có: Xác-định vị trí đơn-vị địch, thâu thập tin tức tình báo chiến lược, thẩm định sự tàn-phá cho các trận thả bom, lùng và diệt địch, đột kích và phá hoại. Bộ chỉ huy B-52 rất nổi tiếng trong suốt trận chiến.

    Đến năm 1966, chương trình Delta làm việc trực tiếp với bộ chỉ huy Quân Viên (MACV), thi hành những sứ mạng trên khắp Việt Nam. Cũng trong năm này hai chương trình khác Sigma và Omega được phát triển với nhiệm vụ tương-tự, hoạt động trên lãnh thổ vùng I và vùng II chiến thuật. Bộ chỉ huy B-52 còn được MACV giao cho nhiệm vụ huấn luyện lính Hoa-Kỳ về kỹ thuật viễn thám. B-52 đồn trú tại Nha-Trang cho đến tháng sáu năm 1970 khi chương trình Delta chấm dứt.

    B-53  NHÓM CỐ VẤN HÀNH QUÂN ĐẶC BIỆT.

    Bộ chỉ huy B-53 được chính thức thành lập tại Việt-Nam vào tháng hai năm 1964. Lúc đó đặt tại căn cứ huấn luyện LLĐB Việt Nam ở Long Thành. Trong thời gian tại đó, nhiều sứ mạng của đơn-vị được đề cao và bảo trợ bởi đơn-vị Nghiên-cứu Quan-sát thuộc bộ chỉ huy Quân-Viện (MACV-SOG).

    Khi Liên-đoàn 5 LLĐB/HK rời Việt-Nam  năm 1971, vấn-đề huấn luyện quân Việt-Nam về chiến-tranh ngoại-lệ vẫn cần thiết. B-53 LLĐB trở thành hạt nhân cho chương trình này và vào tháng giêng năm 1971được gọi là nhóm Cố-vấn Sứ-mạng Đặc-biệt (SMAG). Nhóm mới thành lập này, lúc đầu di chuyển trường huấn-luyện viễn-thám  (MACV  RECONDO), sau đó lấy  bộ chỉ huy Liên-đoàn 5 LLĐB làm bộ chỉ huy vào tháng ba.

    Nhiêm vụ của nhóm cố-vấn này là huấn luyện, cố-vấn và phụ giúp cho đơn vị Dịch-vụ Sứ-mạng Đặc-biệt (Special Mission Service - SMS) của Việt-Nam, đơn vị này là tiền thân của LLĐB/VN trong chiến tranh ngoại lệ. Vào tháng chín năm 1971, đơn vị SMS được lệnh làm việc với Đơn-vị 1, Sở Liên-Lạc QLVNCH đóng tại Đà-Nẵng, hậu thân của bộ chỉ-huy Bắc (Sở Bắc) của nhóm Nghiên-cứu, Quan-sát MACV (MACV-SOG). Cho đến tháng ba năm 1972, trong vòng mười một tháng, nhóm Cố-vấn Sứ-mạng Đặc-biệt (SMAG) hoàn tất việc huấn luyện cho 27 toán hoạt-động và 15 toán viễn thám. Nhóm cố-vấn này chấm dứt nhiệm vụ vào tháng tư năm 1972 và bộ chỉ huy B-53 rời Việt-Nam.

    B-55  TOÁN LIÊN LẠC TẠI SAIGON.

    Với sự hiện diện của LLĐB/HK từ năm 1962, nhu cầu phải có một ban liên lạc gần bộ chỉ huy Quân-Viện Hoa-Kỳ tại Saigon để dễ dàng trong việc soạn thảo, huấn luyện và chuyển những tin tức tình báo. Đó là nhiệm vụ của toán Liên-Lạc LLĐB  B-55, thường được gọi là Trung-tâm Hành-quân Chiến-thuật (TOC), nhưng trên thực tế, cơ-quan này làm nhiệm vụ giải đoán tin tình báo. Được huấn luyện, hướng dẫn bởi ban Cố-vấn Kỹ-thuật Hỗn-hợp (JTAD) và phối hợp với ban Nghiên-cứu Hỗn-hợp (CDS). Sau khi sở Nghiên-cứu, Quan-sát (MACV-SOG) hoạt-động, B-55 làm nhiệm-vụ phối-hợp giữa hai tổ-chức LLĐB tại Việt-Nam.

    Là cơ-quan liên-lạc tại Saigon, B-55 phải lo thủ-tục giấy tờ cho các quân nhân LLĐB/HK tại Việt-Nam. Tham-dự các buổi họp, thuyết trình giữa  các bộ chỉ-huy, tuyển mộ lính đánh thuê. Vào ngày 23 tháng năm 1968, B-55 đảm nhận thêm nhiệm vụ chỉ huy Lực-lượng 5 Xung kích Lưu động (Mike Force). B-55 giữ trách nhiệm này cho đến ngày lên đường về Hoa-Kỳ vào năm 1970.

    B-56  HÀNH QUÂN  SIGMA.

    Khi mức-độ chiến trường leo thang, nhu cầu tình báo tác chiến đòi hỏi qúa nhiều, đặt nặng vấn đề cho chương trình Delta. Liên-đoàn 5 LLĐB/HK thành lập bộ chỉ huy B-56 vào tháng tám 1966 để phụ trách chương trình Hành-quân Sigma đặt căn-cứ trong trại Hồ-ngọc-Tảo. Hành quân Sigma được tổ chức tương-tự như những chương trình thám-sát khác, gồm có tám toán viễn-thám và ba đại-đội xung-kích tiếp ứng. B-56 ít tuyển-mộ người Thượng, dùng lính đánh thuê người Nùng hoặc Miên. Những toán ‘Chạy đường mòn’ của chương trình Sigma được chuyển qua bộ chỉ huy B-57 vào năm 1967.

    Sigma tham gia trong nhiều cuộc hành quân Blackjack trong vùng trách nhiệm hoạt động. Thường làm nhiệm vụ viễn thám cho các cuộc hành quân, đôi khi xử dụng lực lượng cơ-hữu của Sigma phối hợp với lực lượng tiếp-ứng Mike Force.

    Đến tháng mười một 1967, vấn đề chỉ huy hành quân của B-56 được đặt dưới sự kiểm soát của MACV và thuộc quyền xử dụng của viên tư-lệnh Quân-đoàn II. Trong năm 1969, B-56 dời đi Ban-mê-Thuột, cuối cùng trở lại Hoa-Kỳ vào tháng năm 1971.

    B-57  CHƯƠNG TRÌNH  GAMMA.

    Từ khi có nhiều đơn-vị trinh-sát, viễn-thám hoạt động trên chiến trường Việt-Nam, nhu cầu giải đoán những nguồn tin tình báo thâu thập được và cung cấp tin tức, hướng dẫn về các mục tiêu trở nên hiển nhiên. Vào tháng sáu 1967, bộ chỉ huy B-57 chương trình Gamma được thành lập. Bộ chỉ huy đặt tại Saigon, B-57 có nhân-viên làm việc rải rác khắp các vùng chiến thuật II, III, và IV. B-57 đặc biệt tuyển mộ, điều hành những người lấy tin tức (điệp viên) hoạt động trong vùng địch. Để trợ giúp nhân viên tình báo của LLĐB, Lục quân Hoa-Kỳ biệt phái một số chuyên viên tình báo gọi là nhóm Cố-vấn Kỹ-thuật Hỗn-hợp. Tổ chức này đã hoạt động hơn một năm và đã thiết-lập một hệ thống gián-điệp nằm-vùng, có sẵn những nguồn tin tình báo. B-57 còn giữ sự liên-hệ mật thiết với các cơ-quan khác của chính quyền nhằm mục đích trao đổi, thẩm định tin tức và phối hợp các hoạt động tình báo. Chương trình Gamma chấm dứt vào tháng ba năm 1970 khi B-57 rời Việt-Nam.

    TRƯỜNG VIỄN THÁM  (RECONDO SCHOOL).

    Khi chương trình Hành-quân Delta tăng thêm quân-số, nhu cầu huấn-luyện về kỹ thuật tuần-tiễu thám-sát được đặt ra. Vào tháng năm 1964, chương trình Delta bắt đầu huấn-luyện trong phạm-vi căn-cứ tại Nha-Trang. Một thời gian ngắn sau, các đơn-vị bắt đầu nghe đến khóa huấn-luyện viễn-thám và được phép gửi quân nhân về học. Khi cơ-quan MACV được báo cáo kết qủa tốt đẹp của việc huấn luyện, ra chỉ thị cho liên-đoàn 5 LLĐB đảm trách về khóa học.

    15 tháng chín năm 1966 là ngày chính thức khai giảng trường huấn luyện Viễn-Thám MACV với ban huấn luyện thuộc bộ chỉ huy B-52. Khóa học dài ba tuần về kỹ thuật tác chiến, tuần-tiễu, trinh-sát. Khóa sinh phải đầy đủ sức khỏe, đã ở Việt-Nam tối thiểu một tháng và còn sáu tháng phục vụ. Ưu tiên dành cho những quân nhân đến từ các toán A  LLĐB, các đại-đội Biệt-động-quân, các toán viễn-thám và các đơn-vị trinh-sát khác.

    Sau này trường huấn luyện thêm khóa hướng dẫn về chiến-đấu cho các quân nhân LLĐB/HK mới đến Việt-Nam. Trường chính thức đóng cửa vào tháng mười một năm 1970.

    LỰC LƯỢNG DU KÍCH LƯU ĐỘNG.

    Ý tưởng về Lực-lượng Du-kích Lưu-động  (MGF) dựa trên quan-niệm đặt những đơn-vị sâu trong vùng địch kiểm soát trong một khoảng thời gian, nhằm khuấy phá căn-cứ và các hoạt-động của địch. Bắt đầu từ năm 1966, đơn-vị Du-kích Lưu-động gồm có một toán A  LLĐB và một đại-đội 150 người DSCĐ hoặc Mike Force, đã được huấn luyện về kỹ thuật tuần tiễu lâu dài và một trung đội trinh sát 34 người. Dưới danh-hiệu Blackjack, những đơn-vị này được đưa sâu vào vùng địch và nhận tiếp-tế bằng phương tiên thả dù. Hành quân Blackjack 21 xử dụng đơn-vị đặc nhiệm 777 gồm 15 quân nhân LLĐB/HK và 249 quân nhân Thượng. Blackjack 22 gồm có một đại đội xung-kích Mike Force và một đại đội Du-kích lưu-động. Blackjack 33 gồm đại đội 3 xung kích Mike Force và đại đội du-kích 957.

    Có nhiều cuộc hành quân Blackjack được tổ chức trong năm sau, cuối cùng các đại-đội  Du-kích kết hợp với các đại đội  xung-kích Mike Force thành đơn-vị cấp tiểu đoàn Xung-kích Lưu-động.

    LỰC LƯỢNG XUNG KÍCH LƯU ĐỘNG  (Mobile Strike Force).

    Mặc dầu các trại LLĐB đều có lực lượng xung-kích cơ hữu để trả đủa tức thời, tuy nhiên vẫn phải có thêm lực lượng tiếp-ứng khác đặt dưới quyền điều-động trực tiếp của LLĐB trong trường hợp khẩn cấp, giải vây trại LLĐB trước áp-lực nặng nề của địch. Một quyết định được tiến hành vào tháng sáu năm 1966, thành lập một đơn-vị trừ bị cho mỗi quân-khu và đặt trực thuộc bộ chỉ huy LLĐB quân-khu (Bộ chỉ huy C). các tiểu đoàn tiếp-ứng được huấn-luyện và bắt đầu hoạt động từ mùa thu 1966. Mới đầu gọi là Lực-lượng Trừ bị Lüu-động, sau trở thành ‘Mike Force’ (Mobile Reaction Forces - MRF). Năm 1967, tên gọi chính thức cho các đơn-vị trên là Lực-lượng Xung-kích Lưu-động (Mobile Strike Force - MSF), mỗi quân khu đều có một đơn-vị riêng và đơn-vị thứ năm được thành lập xử-dụng cho bốn quân khu.

    Mặc dầu dự định là một đơn-vị trừ bị đa-dụng, đơn-vị xung-kích trước tiên được xử dụng như lực lượng bảo vệ căn-cứ. Mỗi đại đội có 184 người, được tổ chức như đơn vị chính-quy trang bị súng cộng-đồng. Những đại-đội này được gom lại thành tiểu đoàn 552 người. Tiểu-đoàn xung-kích thường có thêm đại đội trinh-sát 135 người và bộ chỉ huy, đại-đội công-vụ 227 người. Nhiệm vụ chính là giải vây cho các trại LLĐB, trong năm đầu, lực lượng xung-kích phối hợp với lực-lượng du-kích trong nhiều cuộc hành-quân. Về sau thường được xử-dụng tiếp-ứng cho toán Nghiên-cứu, Quan-sát (MACV - SOG) khi khẩn-cấp. Đến năm 1967, lực lượng du-kích sát-nhập vào lực lượng xung-kích và hoạt động cho đến khi LLĐB/HK bàn giao cho QLVNCH.

    Chiến-đoàn 1 xung-kích trực thuộc B-16 LLĐB, thành lập vào tháng hai 1966 và đặt dưới quyền chỉ huy của bộ chỉ huy C1/LLĐB tại Đà-Nẵng. Trong 5 năm hoạt-động trên chiến trường vùng I, chiến-đoàn 1 xung-kích gồm có hai tiểu-đoàn, một đại-đội trinh-sát, bộ chỉ huy và đại-đội công-vụ.

    Chiến-đoàn  2 xung-kích trực thuộc B-20 LLĐB ở Plei-Ku, B-23 ở Ban-mê-Thuột và B-24 trên Kontum. Tất cả đặt dưới quyền chỉ huy của bộ chỉ huy C2/LLĐB trách nhiệm trên lãnh thổ quân-khu II. Trong 5 năm hoạt-động, chiến-đoàn 2 xung-kích gồm có năm tiểu-đoàn, một đại đội trinh sát, bộ chỉ huy và đại đội công vụ.

    Chiến-đoàn 3 xung-kích thành lập vào tháng mười một năm 1967 và đặt dưới quyền điều động của bộ chỉ huy C3/LLĐB, chịu trách nhiệm trên lãnh thổ quân-khu III. Bộ chỉ huy B-36 LLĐB chỉ huy trực tiếp chiến-đoàn 3 xung-kích gồm có ba tiểu-đoàn, đại-đội trinh-sát, bộ chỉ huy cùng đại đội công-vụ. Vào cuối năm 1970, chiến đoàn dược chuyển giao cho QLVNCH, B-36 trở về Hoa-Kỳ tháng hai năm 1971.

    Chiến-đoàn 4 xung-kích trực thuộc B-40, bộ chỉ huy C4/LLĐB gồm có ba tiểu-đoàn, đại-đội trinh-sát, đại đội xuồng bay (Air boat) 184 người, bộ chỉ huy cùng đại-đội công-vụ. Mới đầu chịu trách nhiệm trên quân-khu IV đến tháng tám năm 1969, đặt dưới quyền điều động của Biệt-khu 44. Bắt đầu từ tháng năm 1970, chiến đoàn được bàn giao cho QLVNCH, B-40/LLĐB/HK về nước tháng mười hai năm 1970.

 VIII.   LIÊN ĐOÀN NGHIÊN CỨU, QUAN SÁT  (MACV - SOG).

 Description: macvsog

   Liên-đoàn Nghiên-cứu, Quan-sát thuộc bộ chỉ huy Quân-Viện (MACV - SOG) là một đơn-vị tuyệt-đối cho các hành quân đặc biệt. Ngay từ lúc khởi đầu, danh hiệu Nghiên-cứu, Quan-sát (đôi khi gọi là Hành quân Đặc biệt) được dùng làm tên che mắt (Code name - Danh hiệu) cho các cuộc hành quân tối mật về tình-báo.

    Cơ-quan Trung-ương Tình-báo CIA  đã từ lâu yểm trợ cho các dịch-vụ bí-mật của chính quyền VNCH cho đến năm 1963, lúc đó cơ-quan trở thành bộ chỉ huy Lực-lượng Đặc-biệt Việt-Nam và thực hiện những cuộc hành quân đặc biệt. Cường-độ chiến tranh gia tăng, nhu cầu cho các hoạt-động tăng lên. LLĐB/VN phát triển trở thành Sở Khai-thác Đặc-biệt. Vào ngày 16 tháng giêng năm 1964, bộ chỉ huy mới Liên-đoàn Nghiên-cứu, Quan-sát được thành lập trong Chợ-Lớn cho các cuộc hành quân đặc biệt. Năm 1966, bộ chỉ huy MACV-SOG dời ra Saigon, bộ phận Bộ đóng trong phi trường Tân-sơn-Nhất, bộ phận Không yểm dời ra Nha Trang, và bộ phận Hải yểm đóng ngoài Đà-Nẵng.

    Các sứ-mạng của MACV-SOG nhắm trực tiếp vào những nơi địch kiểm-soát trong miền nam Việt-Nam, và vượt biên sang đất Lào, Campuchia, Bắc Việt và nam Trung-Hoa. Những nhiệm-vụ đặc biệt bao gồm việc thu-thập tin-tức tình báo chiến-lược, phá-hoại đường giao liên, tiếp vận của địch, chiến tranh tâm-lý, cứu tù-binh và phát triển phong-trào kháng chiến chống lại chính-quyền, v.v.. . Những nhiệm-vụ thám-sát của Liên-đoàn Nghiên-cứu, Quan-sát (MACV-SOG) được chọn lựa kỹ càng và những bản báo-cáo sau chuyến xâm-nhập thường được gửi về Ngũ-giác đài để đánh gía và phân phối đi.

    Năm 1967, MACV-SOG được tổ chức lại đơn-vị Bộ thành ba bộ chỉ huy: Bộ chỉ huy Bắc (CCN) ở Đà-Nẵng, Trung (CCC) trên Kontum và Nam (CCS) ở Ban-mê-Thuột. Những bộ chỉ huy này được tổ chức bằng cách gom lại một số căn-cứ hành-quân tiền-phương (FOB), mà trước đây được thiết lập để yểm trợ tiếp cận cho những cuộc hành quân xâm nhập. Các căn cứ này đóng ở Phú-Bài (Huế), Kontum, Khe-Sanh, Non-Nước, Ban-mê-Thuột và trại Hồ-ngọc-Tảo. Bộ phận (Sở) Bộ gồm hơn 1600 quân LLĐB/HK, chia ra hơn 70 toán thám-sát và 8000 quân LLĐB Việt-Nam.

    Cách tổ chức cuả Liên-đoàn Nghiên-cứu, Quan-sát (MACV-SOG) cũng gần như song-song với tổ chức của Lực-lượng Đặc-biệt với các toán xâm-nhập tương đương với các toán A  LLĐB, căn-cứ hành-quân tiền-phương tương đương với bộ chỉ huy B  LLĐB, các bộ chỉ huy Bắc, Trung, Nam tương đương với các bộ chỉ huy C  LLĐB.

    Bộ phận (Sở) Không yểm bao gồm Phi-đoàn 90 Hành-quân Đặc-biệt (SOS) của Không-lực Hoa-Kỳ, đóng tại Nha Trang, cung cấp máy bay C-130. Phi đoàn 20 (SOS) có bộ chỉ huy ở vịnh Cam Ranh, các đơn-vị phụ thuộc  đóng tại Ban-mê-Thuột, Đức-Lập và Tiêu Atar cung cấp trực thăng yểm trợ. Ngoài ra MACV-SOG còn có đơn-vị trực thuộc là Phi-đoàn Đệ Nhất (First Flight) đóng rải rác khắp nơi và Thái-Lan.

    Bộ phận Hải yểm đóng ngoài Đà-Nẵng gồm có đơn-vị Biệt-kích (SEALs) của Hải quân Hoa-Kỳ, các siêu tốc đỉnh và các toán Người Nhái, phá-hoại dưới nước thuộc Hải-quân Việt-Nam.

     MACV-SOG còn có một trung tâm huấn luyện và đơn-vị xâm-nhập bằng dù ở Long Thành. Đơn-vị này gồm các quân-nhân Việt-Nam, được thả vào vùng địch bằng phương tiện nhẩy-dù.

    Cơ-quan MACV-SOG ngưng hoạt động kể từ ngày 30 tháng tư 1971 và chương trình được giao cho toán Yểm trợ Nha Kỹ-Thuật 158 (STDAT). Một số quân Bộ đã chuyển qua nhóm Cố-vấn Hành-quân Đặc-biệt từ tháng ba năm 1971. Cuối cùng chấm dứt nhiệm-vụ vào ngày 12 tháng ba năm 1972. Kết thúc một trong những huyền thoại trong ngành Lực-lượng Đặc-biệt.

    BỘ CHỈ HUY  (CCN)  SỞ  BẮC.

    Bộ chỉ huy Bắc được thành lập vào ngày 01 tháng mười một năm 1967 tại Đà-Nẵng với ba bộ chỉ huy tiền-phương 1 tại Phú-Bài, bộ chỉ huy tiền-phương 3 tại Khe-Sanh và bộ chỉ huy tiền-phương 4 tại Non-Nước. Quân nhân thuộc Liên-đoàn 5 LLĐB/HK và ban cố-vấn Hải-quân.

   Các hành quân vượt biên do BCH  Bắc tổ chức nhắm vào miền bắc Việt-Nam và Lào. Những cuộc hành quân trong vùng nam Lào dưới danh hiệu Shining Brass bắt đầu từ năm 1965 nhằm phá-hoại đường dây xâm nhập người và vật liệu. Sau đó đổi tên là Prairie Fire, khi chuyển qua Nha Kỹ-Thuật cuộc hành quân lấy tên là Phù-Dung.

   Như tất cả các cuộc hành quân thám-sát, BCH  Bắc cũng có đơn-vị tiếp ứng gọi là đơn-vị Cảm- Tử đặc biệt. Ngoài ra còn thiết lập những căn cứ hành quân bí mật bên Thái Lan. Tuy nhiên, nhiệm-vụ chính vẫn là trinh-sát, thâu thập tin tức tình báo chiến lược.

 BỘ CHỈ HUY  (CCC)  SỞ  TRUNG.

    Bộ chỉ huy này đóng tại Kontum gồm quân của Liên-đoàn 5 LLĐB/HK, có thời gian  được xem như phần nới rộng hành quân của LĐ 5 LLĐB. Khu vực trách nhiệm của bộ chỉ huy là tam giác Lào, Miên và Việt. Các cuộc hành quân lúc đầu lấy tên là Daniel Boone, sau đổi thành  Salem House nhằm phá hoại căn cứ, kho tiếp-liệu che dấu của quân cộng-sản Bắc Việt, đặc biệt trong vùng đông-bắc Campuchia. Trong   Bộ chỉ huy Trung có tất cả 30 toán thám-sát, mỗi toán gồm 3 quân nhân LLĐB/HK và chín quân nhân Việt-Nam. Ngoài ra còn có bốn đại-đội khai thác, xử dụng tin tức do các toán thám-sát cung cấp trong các cuộc hành quân lùng và diệt.

    BỘ CHỈ HUY  (CCS)  SỞ  NAM.

    Bộ chỉ huy này được thành lập vào tháng mười một năm 1967 đồn trú tại Ban-mê-Thuột. Bộ chỉ huy này nhỏ  nhất trong các bộ chỉ huy của liên-đoàn Nghiên-cứu, Quan-sát (MACV-SOG). Khu vực hoạt động chính nơi đồng bằng Cửu-Long và Campuchia. Đơn-vị gồm có một số toán thám-sát và bốn đại đội khai thác. Do địa thế dưới vùng đồng bằng, các đại-đội khai thác thường xử dụng xuồng bay trong các cuộc hành quân tiếp ứng. Sự tham chiến của các quân nhân Hoa-Kỳ trong đơn-vị này chấm dứt vào tháng giêng năm 1973, tất cả các đơn-vị Hoa-Kỳ trở về nước.

 IX. ĐOẠN  KẾT.

    Trong chiến tranh Việt-Nam, rất nhiều giai thoại nói về binh-chủng Lực-Lượng Đặc-Biệt. Nhưng ít người hiểu biết tường tận, ngay cả đến những quân nhân phục vụ trong ngành LLĐB. Điều này không nên lấy làm lạ vì đó là đặc tính căn bản (Sống chết) của LLĐB.. . ‘BÍ  MẬT’. Nhiều đơn-vị có tên nghe rất lạ, Lôi-Hổ, Thám-sát, Sở Công-tác, liên-lạc, Biệt-kích v. v.. . Đối  với quân đội Hoa-Kỳ, các quân nhân LLĐB được coi như những chiến-sĩ can trường, được tuyển chọn và huấn luyện đầy đủ nhất. Trong QLVNCH, binh-chủng LLĐB Việt Nam gồm những chiến-sĩ can-đảm, gan-lì, đôi khi hơi bí-mật.. . Họ là những ‘Bóng ma biên giới’ đối với quân cộng sản. Binh chủng LLĐB đã đóng góp rất nhiều công lao, xương máu cho miền Nam tự do của chúng ta, mặc dầu những chiến công, sự chiến đấu của họ cũng thầm-lặng.. . bí mật.

 Theo tài liệu:

- Harry Pugh, U.S. Special Forces, C&D Enterprises, Arlington, VA. 1993

- Francis J. Kelly, The Green Berets, Brassey Inc., New York, NY. 1991

- Special Forces and Missions, Time-Life books, Alexandria, VA.

  Dallas, 12 tháng 11, 1996

                 vđh

Friday, September 19, 2025

Món quà của thượng đế cho dân tộc Việt Nam đó là lá Quốc Kỳ Vàng và Ba Sọc Đỏ.

 Lịch sử

Nguồn Gốc của Đơn Vị

Liên Đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt Special Forces Group (A) có dòng dõi từ Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 3, Lực lượng Đặc Nhiệm số 1, một tổ chức kết hợp giữa Canada và Mỹ được thành lập vào ngày 5 tháng 7 năm 1942 và được kích hoạt bốn ngày sau đó vào ngày 9 tháng 7 tại căn cứ Fort William Henry Harrison, Montana. Lực lượng Đặc Nhiệm số 1 đã giải thể vào ngày 5 tháng 12 năm 1944 ở Villeneuve-Loubet, Pháp. Liên Đoàn 5 được thành lập vào ngày 15 tháng 4 năm 1960, đồng thời được hợp nhất với Bộ Tư lệnh và các đơn vị của Bộ Tư lệnh, Liên Đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt (thành lập vào ngày 1 tháng 9 năm 1943). Đơn vị hợp nhất đã được đổi tên thành Bộ Tư lệnh và Bộ Tư lệnh Liên Đoàn, Liên Đoàn 5 Lực Lượng Đặc biệt, và Liên Đoàn 1 Lực lượng Đặc biệt. Các yếu tố hữu cơ được thành lập vào ngày 8 tháng 9 năm 1961. Nhóm 5 được tái kích hoạt vào ngày 21 tháng 9 năm 1961 tại Pháo đài Bragg, Bắc Carolina.Vào ngày 1 tháng 10 năm 2005, đơn vị đã được đổi tên thành Nhóm Lực lượng Đặc biệt 5, Trung đoàn Lực lượng Đặc biệt 1.

 Chiến tranh Lạnh Chiến tranh Việt Nam tổ chức nhóm lực lượng đặc biệt trong thời kỳ Việt Nam Năm 1961, Tổng thống John F. Kennedy bắt đầu kích hoạt các đơn vị lực lượng đặc biệt, bao gồm Nhóm Lực lượng Đặc biệt 5, nhằm chống lại cuộc nổi dậy của Việt Cộng ngày càng gia tăng. Nhóm 5 SFG lần đầu tiên được điều động như một nhóm tư vấn trên chiến trường cho Quân đội Việt Nam Cộng hòa (ARVN). Năm 1964, Nhóm thuê các nhà sản xuất người Việt và các nước Đông Nam Á khác để sản xuất quân phục, mũ boonie và các sản phẩm khác bằng vải Tigerstripe. Đến tháng 2 năm 1965, cuộc chiến đã diễn ra hết sức nghiêm trọng và Nhóm được điều động như một lực lượng chiến đấu chủ yếu, sử dụng chiến tranh không chính quy và chính quy.

 Từ năm 1961 đến 1963, nhóm đã sử dụng một mảnh vải đen có viền trắng, được thiết kế chủ yếu để tăng khả năng nhìn thấy chống lại mũ beret xanh. Nhân viên của nhóm tại Việt Nam đã áp dụng một phiên bản mảnh vải khác, thêm vào một dải vàng chéo với ba dải đỏ hẹp một cách chéo lên nền đen và viền trắng hiện có. Phiên bản này đã được sử dụng từ năm 1963 đến 1970. Những màu sắc này tượng trưng cho những người lính của Nhóm 1 và Nhóm 7, những người đã phục vụ dưới Nhóm 5 trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Từ năm 1970 đến 1985, phiên bản mảnh vải khác đã được áp dụng cho toàn bộ Nhóm, chứ không chỉ cho những người phục vụ tại Việt Nam. Mảnh vải của đơn vị đã trở về phiên bản đen đơn giản vào ngày 16 tháng 1 năm 1985. Vào ngày 23 tháng 3 năm 2016, Nhóm Lực lượng Đặc biệt số 5 một lần nữa đã chuyển đổi về phiên bản mảnh vải thời kỳ Việt Nam.

 Nhóm Lực lượng Đặc biệt số 5 (Dù trên không) là duy nhất trong Chiến tranh Việt Nam vì sử dụng nhiều phương tiện thủy, đặc biệt là tàu khí Hurricane Aircat. Nó đã phát động một chiến dịch trên diện rộng chống lại các lực lượng Việt Cộng ở Đồng bằng sông Cửu Long vào tháng 7 năm 1967. Được tiến hành với Quân đội Nam Việt Nam, lực lượng dân sự không chính quy, và Hải quân và Không quân Hoa Kỳ, chiến dịch được xây dựng xung quanh việc sử dụng khoảng 400 tàu thủy, bao gồm 84 tàu bay, cũng như trực thăng, tàu chiến Hải quân và tàu dân sự. [12] Các hoạt động hải quân mở rộng đòi hỏi một cuộc đại tu chiến thuật để cho phép Nhóm Lực lượng Đặc biệt số 5 sử dụng tốt nhất tốc độ và hỏa lực của các xuồng khí Aircat. Khi được sử dụng với trực thăng vũ trang, thủy phi cơ đệm khí tuần tra và sự hỗ trợ của máy bay trinh sát Không quân, tàu tuần tra sông của Hải quân và pháo binh, những tàu thủy này cho phép "chiến thắng Việt Cộng" và biến mùa lũ thành một lợi thế chiến thuật cho Hoa Kỳ. [13] 

 Việc sử dụng tàu thủy, tăng cường lực lượng quân đội và giới thiệu các chiến thuật khác - triển khai nhiều lính hơn đến các căn cứ Nhóm Phòng vệ Bất thường Dân sự (CIDG), phân phát các hướng dẫn cải tiến cho các sĩ quan và hạ sĩ quan, v.v. - đã cho phép Nhóm Chiến tranh Đặc biệt thứ 5 đưa cuộc chiến đến kẻ thù, chiếm giữ những vùng lãnh thổ rộng lớn tại đồng bằng, làm cho 50 phần trăm lãnh thổ và các căn cứ CIDG trước đó đã bị Việt Cộng quá đông đến mức không thể vào được, trở nên đủ an toàn để hoạt động, và tiến hành các hoạt động cũng như thành lập các căn cứ CIDG sâu trong lãnh thổ Việt Cộng. Tuy nhiên, những thành tựu này không phải là không có giá: 55 lực lượng đặc biệt và 1,654 người Việt đã thiệt mạng trong năm 1967, cũng như ước tính 7,000 Việt Cộng.

 On this day in US Army SF history.....21 Sept. 1961, the 5th Special Forces Group is activated at Ft. Bragg NC.