I. LỜI GIỚI
THIỆU. Kể từ
lâu, năm 1957 đã có quân của LLĐB/HK tại Việt-Nam, lúc đó họ chỉ làm nhiệm-vụ
huấn-luyện, cố-vấn và giúp-đỡ quân-đội VNCH. Các biệt-kích mũ xanh phải tình
nguyện hai lần, lần đầu học nhẩy dù và sau đó học về LLĐB. Trong năm 1957, ngày
24 tháng sáu, liên-đoàn 1 LLĐB được thành lập tại Okinawa và gửi sang Việt-Nam
huấn luyện cho 58 quân nhân Việt-Nam tại Trung-tâm huấn-luyện Biệt-Động-Đội ở
Nha-Trang. Những sĩ quan thụ huấn đó sau này trở thành huấn luyện viên hoặc cán
bộ nồng cốt cho các đơn-vị đầu tiên của LLĐB/VN. Mười năm sau LLĐB cố-vấn và yểm
trợ cho hơn 40.000 Dân-sự Chiến-đấu, hoạt động trên khắp lãnh thổ miền nam Việt
Nam.
II.
PHÁT TRIỂN.
Trong năm
1959, 1960 với sự bành trướng của Việt cộng, gia tăng các vụ phá hoại, khủng bố
gây nên tình trạng bất an nơi thôn quê, hẻo lánh. Quân đội Hoa Kỳ gửi thêm ba mươi
huấn luyện viên LLĐB từ căn cứ Fort Bragg sang nam Việt Nam để tổ chức một chương
trình huấn luyện cho QLVNCH.
Ngày 21
tháng chín 1961, tổng-thống John F. Kenedy tuyên bố sẽ tăng thêm ngân khoản viện
trợ quân-sự, kinh tế cho Việt Nam.
Chính quyền Hoa-Kỳ lo ngại về vấn đề xâm nhập người và vũ-khí của quân cộng-sản vào miền nam, do đó phải tìm
cách ngăn chặn sự xâm nhập này. Các toán A
Lực-lượng Đặc-biệt được giao phó cho trách nhiệm tổ chức và huấn-luyện
những dân-tộc thiểu-số phá hoại, ngăn chặn đường xâm nhập của địch từ bắc vào
nam. Về sau những lực lượng võ trang này được gọi là Dân-sự Chiến-đấu.

Phù hiệu binh chủng LLĐB/VN
Liên-đoàn
5 LLĐB/HK được gửi sang Việt Nam và hoàn toàn chịu trách nhiệm cho các hoạt-động,
hành quân đặc biệt tại miền nam. Lực-lượng Đặc-biệt được Lục quân Hoa-Kỳ tổ chức nhằm thích ứng
cho các cuộc hành quân ngoại lệ và đã được định nghiã như ‘ba khía cạnh liên-hệ trong du-kích chiến, trốn
tránh và đào tẩu, gậy ông đập lưng ông chống lại kẻ thù’. Chiến tranh ngoại-lệ được
định nghiã như sau ‘ Hoạt động ngay
trong lòng địch, hoặc những nơi địch kiểm soát’.
Cơ-cấu tổ
chức căn bản của Liên-đoàn Lực-lượng Đặc-biệt gồm có một bộ chỉ huy đầu não,
ban chỉ huy các đại đội, ba đại-đội hoặc
nhiều hơn, một đại đội truyền tin và một phi-đoàn yểm trợ. Các bộ, ban chỉ huy
gồm đủ các ban tham-mưu để chỉ huy và theo-dõi, thêm phần quân-y, và đơn vị tiếp-tế thả dù. Đại-đội LLĐB thường do một sĩ-quan cấp bậc trung-tá chỉ
huy, thường gồm có một ban tham-mưu và một BCH hành-quân C, bộ chỉ huy này sẽ
chỉ huy ba BCH/HQ B, mỗi BCH/HQ B sẽ chỉ huy bốn toán A. Toán A là một đơn-vị
căn bản mười hai người của LLĐB.
III. LỰC LƯỢNG
DÂN SỰ CHIẾN ĐẤU.
Có hai lý
do cho việc tổ chức DSCĐ. Người Hoa Kỳ tin rằng nên võ trang nhóm dân tộc thiểu
số để chống lại sự xâm nhập của quân cộng-sản. Lý do thứ hai, người Thượng và
các sắc dân thiểu số là mục tiêu chính cho chủ thuyết tuyên truyền của cộng-sản,
họ không hài lòng về chính quyền quốc-gia, rất dễ bị địch lợi dụng, tuyển mộ.
Vào tháng
Chín 1962, bộ chỉ huy LLĐB tại Việt-Nam được thành lập và trực thuộc Bộ Chỉ-Huy Quân-Viện. Đến tháng mười 1962, có tất cả hai
mươi bốn toán LLĐB/HK hoạt động trên miền nam Việt-Nam. Tháng mười một 1962, LLĐB/HK
tại Việt-Nam được tổ chức gồm có một BCH
C, ba BCH B và hai mươi sáu toán
A. Ngoài ra còn có một bộ chỉ huy đặt tại Saigon. BCH C
không làm việc bình thường trên phương diện chỉ huy, điều hành mà làm
nhiệm-vụ như phần mở rộng của BCH trung-ương.
Trong thời
gian từ tháng mười hai 1962 đến tháng hai 1963, BCH/LLĐB/HK hoàn toàn chịu
trách nhiệm chỉ huy các hoạt động của các toán A tại Việt-Nam. Lúc đó các toán
A đã thiết lập các trại Dân-sự Chiến-đấu
trên khắp bốn quân khu. Một BCH B được
thành lập trên mỗi vùng chiến thuật để phối hợp với hệ thống chỉ huy của QLVNCH
và chỉ-huy các toán A. Các toán A được xử dụng tạm thời lấy từ Liên-đoàn 1 từ
Okinawa, và Liên-đoàn 5, 7 LLĐB từ Fort Bragg, North Carolina. Đến tháng mười
hai 1963, các toán A phối hợp với LLĐB Việt-Nam
đã huấn-luyện và võ trang cho 18000 người thuộc lực lượng xung-kích và
43000 người phòng vệ dân-sự. Tháng hai 1963, bộ chỉ huy LLĐB/HK từ Saigon dời đi
Nha-Trang do hai điều thuận-lợi, thứ nhất, Nha-Trang nằm vào khoảng giữa từ vĩ-tuyến
17 đến cuối miền nam, dễ điều hành các toán A nằm rải rác khắp miền nam Việt Nam.
Thứ hai, vị trí nơi biển dễ nhận đồ trang bị, tiếp liệu đến từ Okinawa và phi trường, đường xá có sẵn cho vấn đề tiếp vận.
Cuối năm
1964, Lực lượng Dân-sự Chiến-đấu không còn là vấn đề phát triển nữa. Mục đích
và nhiệm vụ cũng thay đổi, không ngoài việc phòng-vệ xóm làng, các trại DSCĐ được
xử-dụng làm căn cứ cho các cuộc hành quân tấn công vào sào huyệt địch. Sự thay đổi
lớn thứ hai nhằm tăng phần hiệu qủa cho việc kiểm soát biên giới, LLĐB/HK xây
thêm một số trại Biên-phòng.
Trong cuộc
hành quân Switchback (11-62 đến 07-62), các hoạt động tấn công thuộc lực lượng
xung-kích DSCĐ bao gồm phục-kích, tuần-tiễu, thám-sát trong khu vực trách nhiệm
của mỗi trại. Ngoài ra những cuộc hành quân phối hợp với các đơn-vị VNCH bao gồm
LL/DSCĐ thuộc nhiều trại. Trong tháng sáu, bốn đại đội xung kích DSCĐ lấy từ
các trại Đak-To, Plei-Mrong và Polei Krong phối hợp hành quân lùng địch.
Quân cộng-sản
phản-ứng bằng cách pháo kích, quấy rối các trại biên-phòng. Trong cuộc
hành-quân Switchback, các hoạt-động địch gia tăng, hầu hết các trại đều bị bắn
quấy rối. Ngày 3 tháng giêng 1963, đặc-công cùng hai đại-đội CSBV tấn công và
tràn ngập trại Plei-Mrong. Vấn đề phòng thủ các trại biên-phòng được xét lại, Bộ
chỉ-huy Quân Viện ra lệnh cho các toán A thiết lập thêm tuyến phòng thủ thứ hai
cho tất cả các tiền đồn. LLĐB/HK được tăng cường thêm hai tiểu-đoàn Công-binh Hải-quân
(Seabee) phụ gíup trong việc xây cất.
Việc xử-dụng
LL/DSCĐ bao gồm các hoạt động tuần-tiễu, lục soát ra ngoài phạm vi trách nhiệm
của trại thường cần có những căn cứ tiền phương và lực lượng tiếp-ứng. Một lực
lượng xung-kích 20000 quân được thành lập bắt đầu từ tháng mười một 1963 và
hoàn tất vào tháng bẩy năm 1964. Mỗi đại đội DSCĐ có 150 người gồm bộ chỉ huy 10 người và ba trung đội
khinh-binh 35 người, trung đội súng nặng 35 người. Mỗi trại có quân số bốn đại đội.
Hai đại đội hoạt động bên ngoài từ những căn cứ tiền phương, tung các trung đội
và các toán viễn-thám năm người ra hoạt động.
Vào tháng
giêng 1965, trước khi Hoa-Kỳ đem thêm quân vào chiến trường miền nam. Kế hoạch
chống xâm nhập được xác định rõ ràng gửi đi từ bộ chỉ huy liên-đoàn 5 LLĐB/HK tới
các BCH B và các toán A như sau:
Định
nghiã: Kế hoạch chống xâm nhập của LLĐB là một chương trình hỗn hợp quân-sự
và dân-sự vụ, được tổ chức nhằm thực hiện các mục tiêu sau đây: (a) Loại trừ Việt
cộng, thiết lập vùng an-ninh. (b) Bảo đảm sự kiểm soát của chính quyền quốc gia
đối với dân trong vùng. (c) Động viên những người dân hăng hái, sẵn sàng tham
gia trong các chương trình của chính quyền quốc gia.
Những mục
tiêu nói trên có thể đạt được khi thi hành một trong ba nhiệm vụ sau: (1) Kiểm
soát và theo dõi biên-giới. (2) Hoạt động nơi các đường xâm nhập. (3) Hành quân
nơi chiến khu, căn cứ của địch.
Bắt đầu từ
năm này, quân cộng-sản đã thay đổi chiến thuật từ du-kích sang trận-địa chiến.
Các hoạt động của LLĐB được phân làm ba loại. Một, thiết lập thêm trại DSCĐ nhằm
ngăn chặn mức độ chuyển quân, tiếp vận của địch, bỏ một số trại do áp lực quá nặng
của địch và phòng thủ các trại dọc theo biên giới như A-Shau, Lang-Vei, Cồn-Thiên,
Lộc-Ninh, Bù-Đốp.
Thứ hai, mở
các cuộc hành quân ngoại lệ như Hành-quân Delta trong vùng I chiến-thuật. Hành
quân Black-Jack 33 ở vùng III trong kế-hoạch
Hành-quân Sigma. Đây là cuộc hành quân đầu tiên phối hợp giữa đơn-vị du-kích lưu-động
và đơn vị xung-kích tiếp-ứng. Hành-quân Black-Jack 41, hai đại đội xung-kích lưu
động nhẩy dù xuống tấn công căn cứ địch trong vùng núi Thất Sơn dưới vùng IV. Một
đơn-vị xung-kích khác tảo thanh nơi Suối Đá trong vùng III loại khỏi vòng chiến
một tiểu-đoàn Việt cộng trong hành quân Attleboro.
Cuối cùng
là những cuộc hành quân phối hợp với các đơn vị chính-quy bạn. Hành quân Nathan
Hale phối hợp giữa DSCĐ, sư-đoàn 1 Không-Kỵ và sư-đoàn 101 Dù Hoa-Kỳ. Hành quân
Henry Clay và Thayer. Hành quân Rio Blanco ở vùng I bao gồm các đơn-vị thuộc
DSCĐ, Điạ-phương-quân, Biệt-động-quân Việt-Nam, Thuỷ quân lục chiến Đại-Hàn, và
TQLC/HK. Hành quân Sam Houston trên vùng II phối hợp giữa sư-đoàn 4 Bộ-binh
Hoa-Kỳ và DSCĐ.
IV. HÀNH QUÂN NGOẠI LỆ.
Với sự thành lập
các đơn-vị du-kích lưu-động và Hành-quân Sigma, Omega trong thời gian từ
tháng tám cho đến tháng mười năm 1966, khả năng về Chiến-tranh Ngoại-lệ của LLĐB gia tăng. Một
trong những đặc tính của LLĐB là khả năng mở các cuộc hành quân ngắn hoặc lâu
dài nơi vùng địch kiểm soát.
Lực-lượng
Du-kích lưu-động được thành lập vào mùa thu 1966, cải tiến và phát triển từ
quan niệm về đơn-vị xung-kích lưu-động. Những đơn-vị du-kích này được tổ chức,
huấn-luyện và trang-bị để hoạt-động xa, nơi Việt cộng hoặc Bắc quân xem như
thiên-đàng. Trang bị nhẹ, các quân nhân thuộc đơn-vị này xâm nhập vào vùng địch,
do-thám đường mòn, tìm kiếm dấu vết, căn-cứ địch, thâu lượm tin tức tình báo về
những cuộc chuyển quân của địch. Khi phát giác ra nơi đóng quân của địch, toán
du-kích sẽ theo dõi các hoạt động của địch, phục kích lẻ-tẻ, quấy rối, đặt mìn
bẫy. Trường hợp tìm thấy kho tiếp liệu, toán sẽ tìm cách phá hủy hoặc hướng dẫn
phi cơ oanh kích.
Một đơn-vị
du-kích thường được đưa vào vùng hoạt động bằng tất cả mọi phương tiện có sẵn.
Khi đã vào vùng, đơn-vị thực sự trở nên du-kích quân. Đồ tiếp tế được thực hiện qua không trợ. Đơn vị này thường
hoạt động trong lòng địch một thời gian từ ba mươi đến sáu mươi ngày. Họ trở
thành những ‘Chủ nhân ông’ trong khu vực hoạt động, được toàn quyền hành động kể
cả vấn đề không trợ, để đạt mục tiêu. Để tránh bị lộ hành tung, đôi khi phải
cho đồ tiếp tế vào bom Napalm giả do khu trục cơ A1E Skyraider thả xuống trong
một phi vụ oanh-kích gỉa tạo.
Ngoài việc
phát triển đơn-vị du-kích cho mỗi vùng chiến thuật. Liên-đoàn 5 LLĐB/HK còn tổ
chức thêm những cuộc hành quân ngoại-lệ khác như Hành-quân Omega và Sigma. Hai
tổ chức hành quân trên làm tăng thêm khả năng viễn-thám, thâu lượm tin-tức tình
báo của liên-đoàn ngoài tổ chức Hành-quân Delta đã có sẵn. Mỗi tổ chức có quân
số khoảng 600 người, gồm một đơn-vị viễn-thám và một đơn-vị xung-kích tiếp-ứng,
thêm một toán cố-vấn tổ chức như BCH B của
LLĐB.
Hành quân
Delta được đặt dưới quyền chỉ huy hỗn hợp
LLĐB Việt-Mỹ và theo lệnh trực tiếp của Bộ Tổng-tham-mưu QLVNCH và BCH Quân Viện
Hoa-Kỳ (MAC-V). Các toán hành quân Delta được tiểu-đoàn 91 Biệt-cách-dù sẵn
sàng làm lực-lượng tiếp-ứng yểm-trợ. Các toán hành-quân Omega và Sigma được LLĐB
trực tiếp chỉ huy và chỉ chịu trách nhiệm hoạt động ngoài vùng I và II chiến
thuật. Các toán này được các đơn vị xung-kích lưu-động thuộc lực-lượng DSCĐ yểm
trợ.
V. HUẤN LUYỆN VÀ KHÔNG TRỢ.
Chương
trình huấn-luyện cho các cuộc hành-quân ngoại-lệ trước hết là phần huấn luyện về
bộ-binh, kỹ thuật tác chiến trong vùng Đông-nam-Á. Những quân nhân được tuyển
chọn cho hành-quân ngoại-lệ thường đã trải qua thời gian phục-vụ trong lực-lượng
DSCĐ và đã có kinh nghiệm chiến-đấu. Phần huấn luyện kỹ thuật hành quân ngoại-lệ
bắt đầu từ giai đoạn này. Đầu tiên là phải qua khóa huấn luyện nhẩy-dù, sau đó
là các môn học đặc biệt về hành quân như: di-chuyển lặng-lẽ, bí-mật, phương-pháp
tìm dấu-vết, theo-dõi, cách xử-dụng bản đồ, điạ bàn, dụng-cụ làm dấu, những kỹ
thuật xâm-nhập, triệt-thoái vùng thám-sát, hoạt-động, xử dụng các loại vũ-khí đặc
biệt, cứu thương, kỹ thuật đột-kích, phục kích.
Chương
trình huấn luyện kéo dài năm hay sáu tuần-lễ, sáu ngày một tuần và khoảng mười
tiếng đồng hồ mỗi ngày. Các buổi huấn luyện trong căn-cứ và thực tập ngoài bãi
tập.
Vấn đề
hành-quân ngoại lệ rất cần phần không trợ. Phi đoàn không-yểm thuộc Lục quân
Hoa-Kỳ biệt phái cho Liên-đoàn 5 LLĐB đã yểm trợ trực tiếp bằng những trực thăng
võ trang và chuyển vận. Ngoài ra Không lực Hoa-Kỳ cung cấp phương tiện chuyển vận,
đổ quân cấp đơn-vị lớn và về tiếp liệu. Không lực Hoa-Kỳ và Việt Nam
còn yểm trợ thêm về phần oanh-kích hoặc chuyển tiếp công-điện qua hệ thống truyền
tin. Ngoài vùng I chiến thuật, máy bay của Thuỷ quân Lục chiến Hoa-Kỳ cũng cung
cấp những phương tiện yểm trợ tương tự.
VI. SOẠN THẢO KẾ HOẠCH HÀNH QUÂN.
Chiến
tranh ngoại lệ là một vai trò rất quan-trọng của LLĐB trên chiến trường nam Việt
Nam.
Ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt, mỗi cuộc hành quân đều được soạn thảo, điều
nghiên kỹ-lưỡng trước khi thực hiện và lực lượng tham-dự được di chuyển đến căn cứ tiền phương
trước khi ra tay. Thời gian dành cho soạn thảo kế hoạch, chuyển quân tuỳ theo mỗi
loại hành quân và độ khẩn của cuộc hành quân.
Soạn thảo
lệnh hành quân bắt đầu với đầy đủ chi tiết tình báo về khu vực hành quân. Mọi dữ kiện về điạ thế, thời tiết và những nơi
tình nghi có quân địch đều được thâu thập và phân tích. Tất cả những chi tiết đó đều được ghi trên bản đồ,
những lộ trình chính và phụ cho nhiệm-vụ trinh sát đều được chọn lựa và đánh dấu.
Nguồn tin tức thường được lấy từ các bản báo cáo về tình-báo, không ảnh, thẩm-vấn
tù binh, và những bản báo cáo của các đơn-vị bạn đã hành quân qua trước đây. Nếu
cần, ban tham mưu soạn thảo lệnh hành quân bay những phi-vụ thám thính khu vực
hoạt động trước. Những chuyến bay này rất quan trọng cho quyết định cuối cùng
chọn điểm xâm nhập, triệt xuất, chính và phụ.
Khi việc
soạn thảo, điều nghiên đã hoàn tất, lệnh hành-quân sẽ được ban ra. Kế tiếp là
việc chuẩn bị hành quân, trường-hợp cần
thiết phải chuyển quân, vật liệu đến một căn cứ tiền phương đã có không yểm. Nếu
chỉ là một toán nhỏ, ít vật liệu, phi cơ trực thăng của Lục quân, TQLC/HK hoặc
phi-cơ nhỏ được xử dụng. Nếu cuộc hành quân
với quân số cấp đại đội hoặc lớn hơn sẽ được Không lực Hoa-Kỳ cung cấp với
loại phi-cơ vận tải C-7A hoặc C-130.
Khi đến căn-cứ
hành-quân tiền phương, đơn-vị sẽ bị thanh-tra để có thể trong vị thế sẵn sàng.
Các sĩ quan thuộc quyền sẽ được nghe thuyết trình về mục đích, nhiệm-vụ của cuộc hành quân cùng
vớí mệnh-lệnh chi tiết cho từng trung đội, tiểu-đội hoặc toán.
Trong những
nhiệm-vụ thám-sát, các phương-pháp, thủ tục cho mỗi hoạt-động sẽ được trình bầy
chi-tiết tùy theo cuộc hành quân. Khi vào vùng địch, lúc ra khỏi phi-cơ, di
chuyển trong khu vực hành quân, trường hợp chạm địch, và giờ giấc cho vấn đề
triệt xuất.
Sự thành
công trong chiến tranh ngoại lệ tùy thuộc rất nhiều vào yếu-tố bất ngờ. Thêm
vào phần an-ninh của toán biệt-kích, nhiều lúc cần phải tìm cách đánh lừa địch
quân. Lừa đối phương cũng là một phần quan trọng trong các cuộc hành quân. Tùy
theo tình hình, thời tiết, mùa màng và quân số trong cuộc hành quân mà thực hiện các chuyến xâm nhập bằng đường bộ,
không hoặc thủy. Tuy nhiên trên chiến trường Việt-Nam, hầu hết các cuộc xâm nhập,
triệt xuất đều thực hiện bằng phương tiện trực thăng.
Kinh nghiệm
cho biết, thời gian hữu hiệu nhất để thả toán xâm nhập vào lúc trời sắp tối, đủ
thì-giờ cho toán lẩn vào bóng tối và trực thăng được bảo vệ bởi bầu trời đen.
Tuy vậy, địch quân vẫn khám phá ra phương pháp thả toán của ta và tìm cách đối
phó. Do đó phải đánh lừa địch về điểm thả
quân, trực thăng sẽ đáp xuống ba chỗ hay hơn nữa trước khi thực sự thả toán. Điều này làm cho địch
phân-vân không biết đâu là điểm thả quân một cách chính xác. Một phương pháp
khác là đoàn trực thăng ba chiếc bay thấp, nối đuôi nhau, chiếc bay đầu bất ngờ
đáp xuống thả toán biệt-kích trong chớp nhoáng rồi bốc lên nhanh nối vào đuôi
hai chiếc kia làm thành hợp đoàn ba chiếc trở lại.
Trong trường
hợp thả toán bằng đường bộ, các toán ‘Chạy đường mòn’ (Roadrunner), viễn thám
xâm nhập vùng địch dễ dàng lúc trời tối hoặc ngay lúc ban ngày trong trường hợp
căn cứ vẫn thường tung các toán ra tuần tiễu, lục soát mà không theo một phương
hướng nhất định. Trong trường hợp khác, toán viễn thám đi xen vào với một đơn vị lớn. Khi thấy an-toàn, toán biệt-kích lặng lẽ di chyển đến vùng hoạt động đã được
trao phó nhiệm-vụ từ trước.
Tất cả mọi
sự di-chuyển trong chiến tranh ngoại lệ đều được soạn thảo cẩn thận. Sự sống
còn của một toán viễn thám nhỏ tùy thuộc vào mỗi cá nhân trong toán. Sự hiểu biết
về nhiệm-vụ của từng người, đề cao cảnh giác, theo đúng thời khóa biểu lúc di
chuyển. Trong kế hoạch hành quân đôi khi có dặn dò thêm trường hợp toán phải
phân tán tạm thời trước áp lực của địch, thời gian, vị trí của điểm hẹn, tập-họp.
Bí mật là đặc
tính căn bản trong vấn đề di chuyển của
các đơn-vị hành quân ngoại lệ. Mặc dầu địch cũng đề phòng về sự hiện diện của
biệt-kích quân, điều quan trọng là địch vẫn không biết rõ vị trí chính xác của
toán. Mọi di chuyển phải im-lặng, bàn
tay và thủ hiệu được xử dụng để truyền tin và ban lệnh thay cho lời nói, ít xử
dụng máy truyền tin và để độ âm-thanh tối thiểu, súng đạn đồ trang bị gọn gàng
không gây tiếng động khi chạm vào cây lá hơặc đá và tuyệt-đối giữ im lặng khi
di chuyển.
Về vấn đề tái tiếp tế cũng được đặt ra, các quân
nhân trong chiến tranh ngoại lệ không thể mang theo đồ ăn, đạn dược và vật dụng
quá năm ngày. Tùy theo mỗi cuộc hành quân, kế hoạch hành quân cũng nói đến vấn đề
tái tiếp tế trong vòng từ ba đến năm ngày tại một địa điểm định trước. Vấn đề đặt
ra là sự an-toàn, không để lộ vị trí của toán. Thả dù tiếp tế ban ngày sẽ làm
cho địch báo động, đề phòng. Thả ban đêm
trong vùng rừng núi, cơ hội thâu hồi kiện hàng rất ít.
Triệt xuất
theo đúng hạn kỳ hoặc trong trường hợp khẩn cấp phải đem về một người bị tai nạn
bất tử hay cả toán cũng phải tính trước. Lực lượng Đặc biệt rất thành công từ
lúc đầu cho đến giữa năm 1967, hầu hết các toán đều thi hành nhiệm vụ đúng theo
hoạch định, hết thời gian, ra điểm hẹn để trực thăng bốc đem về. Những toán ‘Chạy
đường mòn’, viễn thám rất dẽ bị địch tiêu diệt do đó nhân-viên trong bộ chỉ huy
có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của toán phải chuẩn bị sẵn sàng vấn đề triệt xuất
toán trong vùng địch ngay tức khắc khi nhận được báo cáo ‘khẩn’.
VII. CÁC CĂN CỨ / BỘ CHỈ HUY
LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT.
B-50 LLĐB (HÀNH QUÂN OMEGA).
Dựa trên sự
thành công của các cuộc hành quân Delta và nhu cầu chiến trường, bộ chỉ huy
B-50 Lực lượng Đặc biệt tổ chức Kế-hoạch Hành-quân Omega vào tháng bẩy năm 1966
và đặt tại Nha Trang. Hành quân Omega trực tiếp đảm nhận những cuộc hành quân
viễn-thám, thâu thập tin tức tình báo tác chiến, tuy nhiên không như Delta trực
thuộc bộ Tổng-tham-mưu và bộ tư-lệnh Quân-viện Hoa-Kỳ, hành quân Omega được thực
hiện trên vùng I chiến thuật kể từ ngày 1 tháng chín năm 1967.
B-50 LLĐB
tuyển mộ các sắc tộc thuộc bộ-lạc người Jah, Rhade và Sedang, người gốc Chàm và
Tầu. Ban đầu gồm có tám toán viễn-thám và bốn toán ‘Chạy đường mòn’, sau đó tăng
lên mườI sáu toán viễn-thám và tám toán ‘Chạy đường mòn’. Trong năm 1968, các
toán ‘Chạy đường mòn’ thuyên-chuyển qua B-57 LLĐB tiếp tục các hoạt động tuần
tiễu lấy tin tức. Hành quân Omega có ba đại đội xung-kích làm thành phần tiếp ứng,
trừ bị. Bộ chỉ huy B-50 chấm dứt nhiệm vụ tại Việt Nam vào tháng sáu năm 1972.
B-51 LLĐB TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN ĐỘNG BA THÌN.
Động-ba-Thìn
là trung tâm huấn-luyện của QLVNCH. Đến năm 1964, bộ chỉ huy B-51 LLĐB đến cố vấn
cho chương trình huấn luyện tại trung tâm. Nhiều chương trình huấn-luyện được cải
tiến theo thời gian, khóa căn-bản LLĐB Việt-Nam, khóa học Nhẩy dù của LLĐB, huấn
luyện cho DSCĐ, võ Tae Kown Do Đại-Hàn, truyền-tin và các khóa huấn luyện khác.
Năm 1968,
B-51 LLĐB dời các khóa huấn luyện đi An-Khê, nhưng đến tháng mười 1969 quay trở
lại Động-ba-Thìn và căn-cứ được gọi là Trung-tâm Huấn-luyện Quốc-gia. Sau đó
B-51 được Bộ chỉ huy Quân-viện giao cho nhiệm-vụ huấn-luyện quân-đội Campuchia.
Bộ chỉ huy B-50 LLĐB rời Việt-Nam tháng ba năm 1971.
B-52 LLĐB HÀNH QUÂN DELTA.
Vào tháng
năm 1964, cơ-quan tình-báo CIA khởi đầu chương trình Leaping Lena dùng LLĐB/HK
huấn luyện cho LLĐB/VN và lực-lượng DSCĐ trong những nhiệm-vụ thám-sát thâu-thập
tin tức. Khi chương trình phát triển, nhu-cầu về nhân lực của LLĐB/HK tăng lên
cho đến tháng sáu năm 1965, khi liên-đoàn 5 LLĐB/HK được giao phó thêm
trách-nhiệm và bộ chỉ huy B-52 được thành thập để chỉ-huy và theo dõi các hoạt động
viễn-thám. Chương trình này được gọi là Hành-quân Delta, mỗi toán thường gồm có
hai quân-nhân LLĐB/HK và bốn LLĐB/VN, ngoại trừ các toán ‘Chạy đường mòn’ có từ
bốn đến sáu quân nhân Việt, thường mặc quần áo, trang-bị như quân cộng-sản hoạt
động trong vùng địch kiểm soát.
Bộ chỉ huy
B-52 vẫn thường thay đổi lề-lối làm việc, tổ chức tùy theo nhu-cầu đòi hỏi, mới
đầu chỉ có mười hai toán viễn thám LLĐB Việt-Mỹ và mười hai toán DSCĐ ‘Chạy đường
mòn’, một đại đội phòng thủ ngườI Nùng và tiểu-đoàn 81 Biệt-cách-dù với năm đại
đội làm đơn-vị xung-kích tiếp ứng. Những nhiệm vụ được trao phó cho hành-quân
Delta gồm có: Xác-định vị trí đơn-vị địch, thâu thập tin tức tình báo chiến lược,
thẩm định sự tàn-phá cho các trận thả bom, lùng và diệt địch, đột kích và phá
hoại. Bộ chỉ huy B-52 rất nổi tiếng trong suốt trận chiến.
Đến năm
1966, chương trình Delta làm việc trực tiếp với bộ chỉ huy Quân Viên (MACV),
thi hành những sứ mạng trên khắp Việt Nam. Cũng trong năm này hai chương
trình khác Sigma và Omega được phát triển với nhiệm vụ tương-tự, hoạt động trên
lãnh thổ vùng I và vùng II chiến thuật. Bộ chỉ huy B-52 còn được MACV giao cho
nhiệm vụ huấn luyện lính Hoa-Kỳ về kỹ thuật viễn thám. B-52 đồn trú tại
Nha-Trang cho đến tháng sáu năm 1970 khi chương trình Delta chấm dứt.
B-53 NHÓM CỐ VẤN HÀNH QUÂN ĐẶC BIỆT.
Bộ chỉ huy
B-53 được chính thức thành lập tại Việt-Nam vào tháng hai năm 1964. Lúc đó đặt
tại căn cứ huấn luyện LLĐB Việt Nam
ở Long Thành. Trong thời gian tại đó, nhiều sứ mạng của đơn-vị được đề cao và bảo
trợ bởi đơn-vị Nghiên-cứu Quan-sát thuộc bộ chỉ huy Quân-Viện (MACV-SOG).
Khi Liên-đoàn
5 LLĐB/HK rời Việt-Nam năm 1971, vấn-đề
huấn luyện quân Việt-Nam về chiến-tranh ngoại-lệ vẫn cần thiết. B-53 LLĐB trở
thành hạt nhân cho chương trình này và vào tháng giêng năm 1971được gọi là nhóm
Cố-vấn Sứ-mạng Đặc-biệt (SMAG). Nhóm mới thành lập này, lúc đầu di chuyển trường
huấn-luyện viễn-thám (MACV RECONDO), sau đó lấy bộ chỉ huy Liên-đoàn 5 LLĐB làm bộ chỉ huy
vào tháng ba.
Nhiêm vụ của
nhóm cố-vấn này là huấn luyện, cố-vấn và phụ giúp cho đơn vị Dịch-vụ Sứ-mạng Đặc-biệt
(Special Mission Service - SMS) của Việt-Nam, đơn vị này là tiền thân của LLĐB/VN
trong chiến tranh ngoại lệ. Vào tháng chín năm 1971, đơn vị SMS được lệnh làm
việc với Đơn-vị 1, Sở Liên-Lạc QLVNCH đóng tại Đà-Nẵng, hậu thân của bộ chỉ-huy
Bắc (Sở Bắc) của nhóm Nghiên-cứu, Quan-sát MACV (MACV-SOG). Cho đến tháng ba năm
1972, trong vòng mười một tháng, nhóm Cố-vấn Sứ-mạng Đặc-biệt (SMAG) hoàn tất
việc huấn luyện cho 27 toán hoạt-động và 15 toán viễn thám. Nhóm cố-vấn này chấm
dứt nhiệm vụ vào tháng tư năm 1972 và bộ chỉ huy B-53 rời Việt-Nam.
B-55 TOÁN LIÊN LẠC TẠI SAIGON.
Với sự hiện
diện của LLĐB/HK từ năm 1962, nhu cầu phải có một ban liên lạc gần bộ chỉ huy
Quân-Viện Hoa-Kỳ tại Saigon để dễ dàng trong việc soạn thảo, huấn luyện và chuyển
những tin tức tình báo. Đó là nhiệm vụ của toán Liên-Lạc LLĐB B-55, thường được gọi là Trung-tâm Hành-quân
Chiến-thuật (TOC), nhưng trên thực tế, cơ-quan này làm nhiệm vụ giải đoán tin
tình báo. Được huấn luyện, hướng dẫn bởi ban Cố-vấn Kỹ-thuật Hỗn-hợp (JTAD) và
phối hợp với ban Nghiên-cứu Hỗn-hợp (CDS). Sau khi sở Nghiên-cứu, Quan-sát
(MACV-SOG) hoạt-động, B-55 làm nhiệm-vụ phối-hợp giữa hai tổ-chức LLĐB tại Việt-Nam.
Là cơ-quan
liên-lạc tại Saigon, B-55 phải lo thủ-tục giấy
tờ cho các quân nhân LLĐB/HK tại Việt-Nam. Tham-dự các buổi họp, thuyết trình
giữa các bộ chỉ-huy, tuyển mộ lính đánh
thuê. Vào ngày 23 tháng năm 1968, B-55 đảm nhận thêm nhiệm vụ chỉ huy Lực-lượng
5 Xung kích Lưu động (Mike Force). B-55 giữ trách nhiệm này cho đến ngày lên đường
về Hoa-Kỳ vào năm 1970.
B-56 HÀNH QUÂN
SIGMA.
Khi mức-độ
chiến trường leo thang, nhu cầu tình báo tác chiến đòi hỏi qúa nhiều, đặt nặng
vấn đề cho chương trình Delta. Liên-đoàn 5 LLĐB/HK thành lập bộ chỉ huy B-56
vào tháng tám 1966 để phụ trách chương trình Hành-quân Sigma đặt căn-cứ trong
trại Hồ-ngọc-Tảo. Hành quân Sigma được tổ chức tương-tự như những chương trình
thám-sát khác, gồm có tám toán viễn-thám và ba đại-đội xung-kích tiếp ứng. B-56
ít tuyển-mộ người Thượng, dùng lính đánh thuê người Nùng hoặc Miên. Những toán
‘Chạy đường mòn’ của chương trình Sigma được chuyển qua bộ chỉ huy B-57 vào năm
1967.
Sigma tham
gia trong nhiều cuộc hành quân Blackjack trong vùng trách nhiệm hoạt động. Thường
làm nhiệm vụ viễn thám cho các cuộc hành quân, đôi khi xử dụng lực lượng cơ-hữu
của Sigma phối hợp với lực lượng tiếp-ứng Mike Force.
Đến tháng
mười một 1967, vấn đề chỉ huy hành quân của B-56 được đặt dưới sự kiểm soát của
MACV và thuộc quyền xử dụng của viên tư-lệnh Quân-đoàn II. Trong năm 1969, B-56
dời đi Ban-mê-Thuột, cuối cùng trở lại Hoa-Kỳ vào tháng năm 1971.
B-57 CHƯƠNG TRÌNH
GAMMA.
Từ khi có
nhiều đơn-vị trinh-sát, viễn-thám hoạt động trên chiến trường Việt-Nam, nhu cầu
giải đoán những nguồn tin tình báo thâu thập được và cung cấp tin tức, hướng dẫn
về các mục tiêu trở nên hiển nhiên. Vào tháng sáu 1967, bộ chỉ huy B-57 chương
trình Gamma được thành lập. Bộ chỉ huy đặt tại Saigon,
B-57 có nhân-viên làm việc rải rác khắp các vùng chiến thuật II, III, và IV.
B-57 đặc biệt tuyển mộ, điều hành những người lấy tin tức (điệp viên) hoạt động
trong vùng địch. Để trợ giúp nhân viên tình báo của LLĐB, Lục quân Hoa-Kỳ biệt
phái một số chuyên viên tình báo gọi là nhóm Cố-vấn Kỹ-thuật Hỗn-hợp. Tổ chức
này đã hoạt động hơn một năm và đã thiết-lập một hệ thống gián-điệp nằm-vùng,
có sẵn những nguồn tin tình báo. B-57 còn giữ sự liên-hệ mật thiết với các cơ-quan
khác của chính quyền nhằm mục đích trao đổi, thẩm định tin tức và phối hợp các
hoạt động tình báo. Chương trình Gamma chấm dứt vào tháng ba năm 1970 khi B-57
rời Việt-Nam.
TRƯỜNG VIỄN
THÁM (RECONDO SCHOOL).
Khi chương
trình Hành-quân Delta tăng thêm quân-số, nhu cầu huấn-luyện về kỹ thuật tuần-tiễu
thám-sát được đặt ra. Vào tháng năm 1964, chương trình Delta bắt đầu huấn-luyện
trong phạm-vi căn-cứ tại Nha-Trang. Một thời gian ngắn sau, các đơn-vị bắt đầu
nghe đến khóa huấn-luyện viễn-thám và được phép gửi quân nhân về học. Khi cơ-quan
MACV được báo cáo kết qủa tốt đẹp của việc huấn luyện, ra chỉ thị cho liên-đoàn
5 LLĐB đảm trách về khóa học.
15 tháng
chín năm 1966 là ngày chính thức khai giảng trường huấn luyện Viễn-Thám MACV với
ban huấn luyện thuộc bộ chỉ huy B-52. Khóa học dài ba tuần về kỹ thuật tác chiến,
tuần-tiễu, trinh-sát. Khóa sinh phải đầy đủ sức khỏe, đã ở Việt-Nam tối thiểu một
tháng và còn sáu tháng phục vụ. Ưu tiên dành cho những quân nhân đến từ các
toán A LLĐB, các đại-đội Biệt-động-quân,
các toán viễn-thám và các đơn-vị trinh-sát khác.
Sau này trường
huấn luyện thêm khóa hướng dẫn về chiến-đấu cho các quân nhân LLĐB/HK mới đến
Việt-Nam. Trường chính thức đóng cửa vào tháng mười một năm 1970.
LỰC LƯỢNG
DU KÍCH LƯU ĐỘNG.
Ý tưởng về
Lực-lượng Du-kích Lưu-động (MGF) dựa
trên quan-niệm đặt những đơn-vị sâu trong vùng địch kiểm soát trong một khoảng
thời gian, nhằm khuấy phá căn-cứ và các hoạt-động của địch. Bắt đầu từ năm
1966, đơn-vị Du-kích Lưu-động gồm có một toán A
LLĐB và một đại-đội 150 người DSCĐ hoặc Mike Force, đã được huấn luyện về
kỹ thuật tuần tiễu lâu dài và một trung đội trinh sát 34 người. Dưới danh-hiệu
Blackjack, những đơn-vị này được đưa sâu vào vùng địch và nhận tiếp-tế bằng phương
tiên thả dù. Hành quân Blackjack 21 xử dụng đơn-vị đặc nhiệm 777 gồm 15 quân
nhân LLĐB/HK và 249 quân nhân Thượng. Blackjack 22 gồm có một đại đội xung-kích
Mike Force và một đại đội Du-kích lưu-động. Blackjack 33 gồm đại đội 3 xung
kích Mike Force và đại đội du-kích 957.
Có nhiều
cuộc hành quân Blackjack được tổ chức trong năm sau, cuối cùng các đại-đội Du-kích kết hợp với các đại đội xung-kích Mike Force thành đơn-vị cấp tiểu đoàn
Xung-kích Lưu-động.
LỰC LƯỢNG
XUNG KÍCH LƯU ĐỘNG (Mobile Strike
Force).
Mặc dầu
các trại LLĐB đều có lực lượng xung-kích cơ hữu để trả đủa tức thời, tuy nhiên
vẫn phải có thêm lực lượng tiếp-ứng khác đặt dưới quyền điều-động trực tiếp của
LLĐB trong trường hợp khẩn cấp, giải vây trại LLĐB trước áp-lực nặng nề của địch.
Một quyết định được tiến hành vào tháng sáu năm 1966, thành lập một đơn-vị trừ
bị cho mỗi quân-khu và đặt trực thuộc bộ chỉ huy LLĐB quân-khu (Bộ chỉ huy C).
các tiểu đoàn tiếp-ứng được huấn-luyện và bắt đầu hoạt động từ mùa thu 1966. Mới
đầu gọi là Lực-lượng Trừ bị Lüu-động, sau trở thành ‘Mike Force’ (Mobile
Reaction Forces - MRF). Năm 1967, tên gọi chính thức cho các đơn-vị trên là Lực-lượng
Xung-kích Lưu-động (Mobile Strike Force - MSF), mỗi quân khu đều có một đơn-vị
riêng và đơn-vị thứ năm được thành lập xử-dụng cho bốn quân khu.
Mặc dầu dự
định là một đơn-vị trừ bị đa-dụng, đơn-vị xung-kích trước tiên được xử dụng như
lực lượng bảo vệ căn-cứ. Mỗi đại đội có 184 người, được tổ chức như đơn vị
chính-quy trang bị súng cộng-đồng. Những đại-đội này được gom lại thành tiểu đoàn
552 người. Tiểu-đoàn xung-kích thường có thêm đại đội trinh-sát 135 người và bộ
chỉ huy, đại-đội công-vụ 227 người. Nhiệm vụ chính là giải vây cho các trại LLĐB,
trong năm đầu, lực lượng xung-kích phối hợp với lực-lượng du-kích trong nhiều
cuộc hành-quân. Về sau thường được xử-dụng tiếp-ứng cho toán Nghiên-cứu,
Quan-sát (MACV - SOG) khi khẩn-cấp. Đến năm 1967, lực lượng du-kích sát-nhập
vào lực lượng xung-kích và hoạt động cho đến khi LLĐB/HK bàn giao cho QLVNCH.
Chiến-đoàn
1 xung-kích trực thuộc B-16 LLĐB, thành lập vào tháng hai 1966 và đặt dưới quyền
chỉ huy của bộ chỉ huy C1/LLĐB tại Đà-Nẵng. Trong 5 năm hoạt-động trên chiến trường
vùng I, chiến-đoàn 1 xung-kích gồm có hai tiểu-đoàn, một đại-đội trinh-sát, bộ
chỉ huy và đại-đội công-vụ.
Chiến-đoàn 2 xung-kích trực thuộc B-20 LLĐB ở Plei-Ku,
B-23 ở Ban-mê-Thuột và B-24 trên Kontum. Tất cả đặt dưới quyền chỉ huy của bộ
chỉ huy C2/LLĐB trách nhiệm trên lãnh thổ quân-khu II. Trong 5 năm hoạt-động,
chiến-đoàn 2 xung-kích gồm có năm tiểu-đoàn, một đại đội trinh sát, bộ chỉ huy
và đại đội công vụ.
Chiến-đoàn
3 xung-kích thành lập vào tháng mười một năm 1967 và đặt dưới quyền điều động của
bộ chỉ huy C3/LLĐB, chịu trách nhiệm trên lãnh thổ quân-khu III. Bộ chỉ huy
B-36 LLĐB chỉ huy trực tiếp chiến-đoàn 3 xung-kích gồm có ba tiểu-đoàn, đại-đội
trinh-sát, bộ chỉ huy cùng đại đội công-vụ. Vào cuối năm 1970, chiến đoàn dược
chuyển giao cho QLVNCH, B-36 trở về Hoa-Kỳ tháng hai năm 1971.
Chiến-đoàn
4 xung-kích trực thuộc B-40, bộ chỉ huy C4/LLĐB gồm có ba tiểu-đoàn, đại-đội
trinh-sát, đại đội xuồng bay (Air boat) 184 người, bộ chỉ huy cùng đại-đội
công-vụ. Mới đầu chịu trách nhiệm trên quân-khu IV đến tháng tám năm 1969, đặt
dưới quyền điều động của Biệt-khu 44. Bắt đầu từ tháng năm 1970, chiến đoàn được
bàn giao cho QLVNCH, B-40/LLĐB/HK về nước tháng mười hai năm 1970.
VIII. LIÊN ĐOÀN NGHIÊN CỨU, QUAN SÁT (MACV - SOG).

Liên-đoàn
Nghiên-cứu, Quan-sát thuộc bộ chỉ huy Quân-Viện (MACV - SOG) là một đơn-vị tuyệt-đối
cho các hành quân đặc biệt. Ngay từ lúc khởi đầu, danh hiệu Nghiên-cứu,
Quan-sát (đôi khi gọi là Hành quân Đặc biệt) được dùng làm tên che mắt (Code
name - Danh hiệu) cho các cuộc hành quân tối mật về tình-báo.
Cơ-quan
Trung-ương Tình-báo CIA đã từ lâu yểm trợ
cho các dịch-vụ bí-mật của chính quyền VNCH cho đến năm 1963, lúc đó cơ-quan trở
thành bộ chỉ huy Lực-lượng Đặc-biệt Việt-Nam và thực hiện những cuộc hành quân đặc
biệt. Cường-độ chiến tranh gia tăng, nhu cầu cho các hoạt-động tăng lên. LLĐB/VN
phát triển trở thành Sở Khai-thác Đặc-biệt. Vào ngày 16 tháng giêng năm 1964, bộ
chỉ huy mới Liên-đoàn Nghiên-cứu, Quan-sát được thành lập trong Chợ-Lớn cho các
cuộc hành quân đặc biệt. Năm 1966, bộ chỉ huy MACV-SOG dời ra Saigon,
bộ phận Bộ đóng trong phi trường Tân-sơn-Nhất, bộ phận Không yểm dời ra Nha
Trang, và bộ phận Hải yểm đóng ngoài Đà-Nẵng.
Các sứ-mạng
của MACV-SOG nhắm trực tiếp vào những nơi địch kiểm-soát trong miền nam Việt-Nam,
và vượt biên sang đất Lào, Campuchia, Bắc Việt và nam Trung-Hoa. Những nhiệm-vụ
đặc biệt bao gồm việc thu-thập tin-tức tình báo chiến-lược, phá-hoại đường giao
liên, tiếp vận của địch, chiến tranh tâm-lý, cứu tù-binh và phát triển
phong-trào kháng chiến chống lại chính-quyền, v.v.. . Những nhiệm-vụ thám-sát của
Liên-đoàn Nghiên-cứu, Quan-sát (MACV-SOG) được chọn lựa kỹ càng và những bản
báo-cáo sau chuyến xâm-nhập thường được gửi về Ngũ-giác đài để đánh gía và phân
phối đi.
Năm 1967,
MACV-SOG được tổ chức lại đơn-vị Bộ thành ba bộ chỉ huy: Bộ chỉ huy Bắc (CCN) ở
Đà-Nẵng, Trung (CCC) trên Kontum và Nam (CCS) ở Ban-mê-Thuột. Những bộ chỉ huy
này được tổ chức bằng cách gom lại một số căn-cứ hành-quân tiền-phương (FOB),
mà trước đây được thiết lập để yểm trợ tiếp cận cho những cuộc hành quân xâm nhập.
Các căn cứ này đóng ở Phú-Bài (Huế), Kontum, Khe-Sanh, Non-Nước, Ban-mê-Thuột
và trại Hồ-ngọc-Tảo. Bộ phận (Sở) Bộ gồm hơn 1600 quân LLĐB/HK, chia ra hơn 70
toán thám-sát và 8000 quân LLĐB Việt-Nam.
Cách tổ chức
cuả Liên-đoàn Nghiên-cứu, Quan-sát (MACV-SOG) cũng gần như song-song với tổ chức
của Lực-lượng Đặc-biệt với các toán xâm-nhập tương đương với các toán A LLĐB, căn-cứ hành-quân tiền-phương tương đương
với bộ chỉ huy B LLĐB, các bộ chỉ huy Bắc,
Trung, Nam tương đương với các bộ chỉ huy C
LLĐB.
Bộ phận (Sở)
Không yểm bao gồm Phi-đoàn 90 Hành-quân Đặc-biệt (SOS) của Không-lực Hoa-Kỳ, đóng
tại Nha Trang, cung cấp máy bay C-130. Phi đoàn 20 (SOS) có bộ chỉ huy ở vịnh
Cam Ranh, các đơn-vị phụ thuộc đóng tại
Ban-mê-Thuột, Đức-Lập và Tiêu Atar cung cấp trực thăng yểm trợ. Ngoài ra
MACV-SOG còn có đơn-vị trực thuộc là Phi-đoàn Đệ Nhất (First Flight) đóng rải
rác khắp nơi và Thái-Lan.
Bộ phận Hải
yểm đóng ngoài Đà-Nẵng gồm có đơn-vị Biệt-kích (SEALs) của Hải quân Hoa-Kỳ, các
siêu tốc đỉnh và các toán Người Nhái, phá-hoại dưới nước thuộc Hải-quân Việt-Nam.
MACV-SOG
còn có một trung tâm huấn luyện và đơn-vị xâm-nhập bằng dù ở Long Thành. Đơn-vị
này gồm các quân-nhân Việt-Nam, được thả vào vùng địch bằng phương tiện nhẩy-dù.
Cơ-quan
MACV-SOG ngưng hoạt động kể từ ngày 30 tháng tư 1971 và chương trình được giao
cho toán Yểm trợ Nha Kỹ-Thuật 158 (STDAT). Một số quân Bộ đã chuyển qua nhóm Cố-vấn
Hành-quân Đặc-biệt từ tháng ba năm 1971. Cuối cùng chấm dứt nhiệm-vụ vào ngày
12 tháng ba năm 1972. Kết thúc một trong những huyền thoại trong ngành Lực-lượng
Đặc-biệt.
BỘ CHỈ HUY (CCN)
SỞ BẮC.
Bộ chỉ huy
Bắc được thành lập vào ngày 01 tháng mười một năm 1967 tại Đà-Nẵng với ba bộ chỉ
huy tiền-phương 1 tại Phú-Bài, bộ chỉ huy tiền-phương 3 tại Khe-Sanh và bộ chỉ
huy tiền-phương 4 tại Non-Nước. Quân nhân thuộc Liên-đoàn 5 LLĐB/HK và ban cố-vấn
Hải-quân.
Các hành
quân vượt biên do BCH Bắc tổ chức nhắm
vào miền bắc Việt-Nam và Lào. Những cuộc hành quân trong vùng nam Lào dưới danh
hiệu Shining Brass bắt đầu từ năm 1965 nhằm phá-hoại đường dây xâm nhập người
và vật liệu. Sau đó đổi tên là Prairie Fire, khi chuyển qua Nha Kỹ-Thuật cuộc
hành quân lấy tên là Phù-Dung.
Như tất cả
các cuộc hành quân thám-sát, BCH Bắc cũng
có đơn-vị tiếp ứng gọi là đơn-vị Cảm- Tử đặc biệt. Ngoài ra còn thiết lập những
căn cứ hành quân bí mật bên Thái Lan. Tuy nhiên, nhiệm-vụ chính vẫn là
trinh-sát, thâu thập tin tức tình báo chiến lược.
BỘ CHỈ HUY
(CCC) SỞ TRUNG.
Bộ chỉ huy
này đóng tại Kontum gồm quân của Liên-đoàn 5 LLĐB/HK, có thời gian được xem như phần nới rộng hành quân của LĐ 5
LLĐB. Khu vực trách nhiệm của bộ chỉ huy là tam giác Lào, Miên và Việt. Các cuộc
hành quân lúc đầu lấy tên là Daniel Boone, sau đổi thành Salem House nhằm phá hoại căn cứ, kho tiếp-liệu
che dấu của quân cộng-sản Bắc Việt, đặc biệt trong vùng đông-bắc Campuchia.
Trong Bộ chỉ huy Trung có tất cả 30
toán thám-sát, mỗi toán gồm 3 quân nhân LLĐB/HK và chín quân nhân Việt-Nam.
Ngoài ra còn có bốn đại-đội khai thác, xử dụng tin tức do các toán thám-sát
cung cấp trong các cuộc hành quân lùng và diệt.
BỘ CHỈ HUY (CCS)
SỞ NAM.
Bộ chỉ huy
này được thành lập vào tháng mười một năm 1967 đồn trú tại Ban-mê-Thuột. Bộ chỉ
huy này nhỏ nhất trong các bộ chỉ huy của
liên-đoàn Nghiên-cứu, Quan-sát (MACV-SOG). Khu vực hoạt động chính nơi đồng bằng
Cửu-Long và Campuchia. Đơn-vị gồm có một số toán thám-sát và bốn đại đội khai
thác. Do địa thế dưới vùng đồng bằng, các đại-đội khai thác thường xử dụng xuồng
bay trong các cuộc hành quân tiếp ứng. Sự tham chiến của các quân nhân Hoa-Kỳ
trong đơn-vị này chấm dứt vào tháng giêng năm 1973, tất cả các đơn-vị Hoa-Kỳ trở
về nước.
IX. ĐOẠN KẾT.
Trong chiến
tranh Việt-Nam, rất nhiều giai thoại nói về binh-chủng Lực-Lượng Đặc-Biệt. Nhưng
ít người hiểu biết tường tận, ngay cả đến những quân nhân phục vụ trong ngành
LLĐB. Điều này không nên lấy làm lạ vì đó là đặc tính căn bản (Sống chết) của
LLĐB.. . ‘BÍ MẬT’. Nhiều đơn-vị có tên
nghe rất lạ, Lôi-Hổ, Thám-sát, Sở Công-tác, liên-lạc, Biệt-kích v. v.. . Đối với quân đội Hoa-Kỳ, các quân nhân LLĐB được
coi như những chiến-sĩ can trường, được tuyển chọn và huấn luyện đầy đủ nhất.
Trong QLVNCH, binh-chủng LLĐB Việt Nam gồm những chiến-sĩ can-đảm,
gan-lì, đôi khi hơi bí-mật.. . Họ là những ‘Bóng ma biên giới’ đối với quân cộng
sản. Binh chủng LLĐB đã đóng góp rất nhiều công lao, xương máu cho miền Nam tự
do của chúng ta, mặc dầu những chiến công, sự chiến đấu của họ cũng thầm-lặng..
. bí mật.
Theo tài liệu:
- Harry Pugh, U.S. Special Forces, C&D Enterprises, Arlington, VA.
1993
- Francis J. Kelly, The Green Berets, Brassey Inc.,
New York, NY.
1991
- Special Forces and Missions, Time-Life books, Alexandria, VA.
Dallas, 12 tháng 11, 1996
vđh
No comments:
Post a Comment