Lê Văn Tường, nguyên quán: Quảng Trị, sinh năm 1954, có bằng Tú Tài 1 năm 1972, bị tổng động viên, vào học sĩ quan Thủ Đức giữa hoặc cuối năm 1972.
Tôi chỉ biết anh ấy công tác tại Đoàn công tác 11 - Bộ Tổng TM, đóng quân tại bán đảo Sơn Trà, Tháng 6 năm 1974, nhóm nhảy gồm 6 người đều bị bắt gọn tại phía Tây - Quảng Nam (thông tin không chính thức, chỉ nghe Đoàn trưởng kể lại cho Cha tôi).
Nếu trong nhóm có ai còn có thông tin gì về anh ấy, dù nhiều hay ít xin báo cho tôi biết.
Gia đình chúng tôi muôn vàn đội ơn
Mọi tin tức về Chiến Hữu Lê Văn Tường
xin e-mail về : NhaKyThuat@yahoo.com
Mọi tin tức về Chiến Hữu Lê Văn Tường
xin e-mail về : NhaKyThuat@yahoo.com
Anh tôi, Lê Văn Tường, nguyên quán: Quảng Trị, sinh năm
1954, có bằng Tú Tài 1 năm 1972, bị tổng động viên, vào học sĩ quan Thủ Đức giữa
hoặc cuối năm 1972. Tôi chỉ biết anh ấy công tác tại Đoàn công tác 11 - Bộ Tổng
TM mang lon Thiếu úy, đóng quân tại bán đảo Sơn Trà, Tháng 6 năm 1974, nhóm nhảy
gồm 6 người đều bị bắt gọn tại phía Tây - Quảng Nam. Hồi đó tôi còn nhỏ và
gia đình đang sống tại Ninh Thuận, hiện nay là xã Quảng Sơn, Ninh
Sơn, Ninh Thuận. Khi có thông báo mất tích, cha tôi (đã chết năm 2007) đã
ra Đà Nẵng và được (hình như là Trung tá đoàn trưởng) kể lại
toán nhảy gồm 6 người, có Trung úy Sơn làm toán trưởng (tôi nhớ không rõ lắm).
Lần nhảy đó gồm có 3 toán, đến ngày thứ ba khi chuẩn bị đón trực
thăng bốc về thì toán nhảy của anh tôi gặp đối phương, nhân viên truyền
tin bị bắn và lăn xuống khe nước, những thành viên còn lại đều bị bắt.
Khi tìm và đưa được anh truyền tin về căn cứ kể lại chi tiết,
nhưng khoảng hai giờ sau thì anh ấy chết (thông tin này Đoàn trưởng
kể lại cho Cha tôi). Nếu anh tôi còn sống một cách bình thường thì chắc gia
đình tôi đã có tin. Gia đình chúng tôi chỉ muốn biết anh ấy chết và được chôn cất
như thế nào để chúng tôi có thể tìm được mộ của anh ấy, dẫu sao đó cũng là niềm
an ủi duy nhất cho gia đình. Nếu có điều kiện, xin các anh bỏ chút thời gian
tìm hiểu và thông tin cho chúng tôi.
Xin cám ơn nhiều.
E-mail của Sĩ Quan Trưởng Tóan về chuyến Hành Quân
Đ11 cũng có nguyên toán mất tích ở Thường Đức vào tháng 5 năm 1974.
Chuyến công tác đó tôi là trưởng toán, chỉ có 5 nhân viên gồm Sơn ,Tường, Kính ,Lai, Bô .
Chuẩn úy Nguyễn văn Tường (Triệu Phong Quảng Trị) Sĩ quan Thủ Đức 1974 về ĐCT 11 HY SINH trong công tác khoảng 9 giờ sáng ngày 22 tháng 5 1974 tại Thường Đức.
Chuẩn úy Phan đình Kính ở tù mãn hạn được thả, nhưng sau lại mất tích không rõ lý do.
Xâm nhập chiều 19/5/1974 ngay sau khi xuống bãi đã thấy rất nhiều dấu vết hoạt động của địch
Chuyến công tác đó tôi là trưởng toán, chỉ có 5 nhân viên gồm Sơn ,Tường, Kính ,Lai, Bô .
Chuẩn úy Nguyễn văn Tường (Triệu Phong Quảng Trị) Sĩ quan Thủ Đức 1974 về ĐCT 11 HY SINH trong công tác khoảng 9 giờ sáng ngày 22 tháng 5 1974 tại Thường Đức.
Chuẩn úy Phan đình Kính ở tù mãn hạn được thả, nhưng sau lại mất tích không rõ lý do.
Xâm nhập chiều 19/5/1974 ngay sau khi xuống bãi đã thấy rất nhiều dấu vết hoạt động của địch
( trước đó khoảng 1 tuần đã có một toán của Đ 71
mất tích nguyên toán trong khu vực này ,sau khi bị bắt tôi đã gặp c/u
Trần văn Quang người còn sống sót duy nhất trong toán đó của Đ 71)
Ngày 20/5/74 toán thấy rất nhiều dấu vết trên cỏ tranh biết bị địch âm thầm bao vây với quân số rất đông nên di chuyển xóa dấu vết thận trọng.
Ngày 21/5/74 vòng vây bị thu hẹp vì địch tổ chức rất nhiều toán, mỗi toán cỡ 20 người bao vây xoay trôn ốc từ ngoài vào trong.
Ngày 22/5/74 địch tấn công trực diện vào lúc 9 giờ sáng nhưng nhờ đã thận trọng chọn vị trí tốt bên cạnh 1 triền núi sâu lõm xuống 3 thước nên toán lăn xuống dưới tầm đạn, nếu không thì đã tiêu nguyên toán
Ngay giây phút chạm địch đầu tiên c/u Tường hy sinh tại chỗ vì không kịp lăn xuống hố, Lai bị thương nhẹ vẫn cùng với toán chạy thoát được lần tấn công sáng hôm đó, lực lượng địch rất đông vì đang tập trung vây hãm Thường Đức bủa ra lùng bắt suốt ngày vây toán vào giữa.
Ngày 20/5/74 toán thấy rất nhiều dấu vết trên cỏ tranh biết bị địch âm thầm bao vây với quân số rất đông nên di chuyển xóa dấu vết thận trọng.
Ngày 21/5/74 vòng vây bị thu hẹp vì địch tổ chức rất nhiều toán, mỗi toán cỡ 20 người bao vây xoay trôn ốc từ ngoài vào trong.
Ngày 22/5/74 địch tấn công trực diện vào lúc 9 giờ sáng nhưng nhờ đã thận trọng chọn vị trí tốt bên cạnh 1 triền núi sâu lõm xuống 3 thước nên toán lăn xuống dưới tầm đạn, nếu không thì đã tiêu nguyên toán
Ngay giây phút chạm địch đầu tiên c/u Tường hy sinh tại chỗ vì không kịp lăn xuống hố, Lai bị thương nhẹ vẫn cùng với toán chạy thoát được lần tấn công sáng hôm đó, lực lượng địch rất đông vì đang tập trung vây hãm Thường Đức bủa ra lùng bắt suốt ngày vây toán vào giữa.
Khoảng 5 hoặc 6 giờ chiều cùng ngày toán bị một lực lượng địch phối hợp với Thượng cộng dẫn chó săn truy kích phát hiện và bị bắt.
Sau khi toán bị bắt Cộng quân đã đánh chiếm được Thường Đức lần đầu tiên tháng 5/74, sau quân Dù đã phải tái chiếm lại.
Sau khi bị bắt tôi đã hỏi về di hài của C/u Tường thì chỉ được cho biết là đã chôn rồi nhưng hỏi ở đâu thì không cho biết và đã bị 2 báng súng AK vì câu hỏi đó.
Tôi nghĩ là địch đã chôn anh trong vùng mục tiêu hành quân và theo Bưu tín báo cáo mất tích của NKT/SCT/Đoàn Công - Tác 11 gửi về cho gia đình tôi thì tôi mất tích trong cuộc hành quân THẦN-LONG 115 (MT. 115 U) tại tọa độ YC. 985618 thuộc lãnh thổ Quận Thường Đức, tỉnh Quảng Nam , (QK.1) - Được Quy Trách Vì Công Vụ.
Ngoài ra ĐCT 11 có 2 sĩ quan trưởng toán tên Trường
Trung úy Lê viết Trường hy sinh trong khi thi hành công tác
Thiếu úy Phùng văn Trường (hình như cũng đã hy sinh)
Sơn ĐCT 11
Thiếu Úy Nguyễn Anh Sơn Đòan 11 / Australia
Thiếu Úy Nguyễn Sa Đòan 11 (Người chết trở về 1) ,
Thiếu Úy Nguyễn Anh Sơn ( Người chết trở về 2)
và Thiếu Tá Lê Hữu Minh ( Tù cộng sản 17 năm )
CHT/Đòan 11 Sở Công Tác / NKT
Trận đánh
quyết định
(Bài 1)
Lữ
Giang
Đầu năm
1975, khi
quyết định
mở trận đánh
Ban Mê
Thuột, Đảng
CSVN có lẽ
không ngờ đó
là trật đánh
quyết định
số phận của
miền Nam
Việt Nam,
thế mà chỉ
40 ngày sau,
miền Nam đã
mất! Rất
nhiều người
đã sửng sốt
về chuyện
này, kể cả
các viên
chức quân sự
cao cấp của
miền Nam
Việt Nam.
Nhìn lại
diễn biến
của những
ngày sau
cùng trước
khi miền Nam
bị mất,
chúng ta sẽ
thấy do
nhiều quyềt
định sai lầm
và liên
tiếp
của
Tổng Thống
Thiệu, một
người yếu
kém cả về
quân sự lẫn
chính trị
nhưng lại
rất độc
đoán, nên đã
bị Hoa Kỳ
đưa vào tình
thế phải
chấm dứt
cuộc chiến
một cách
nghiệt ngã
và nhanh
chóng. Hôm
nay chúng
tôi xin ghi
lại một lần
nữa về sự
thất trận kỳ
lạ ở Ban Mê
Thuột. Trong
bài tiếp
theo, dựa
vào các tài
liệu được
tiết lộ,
chúng tôi sẽ
nói đến đòn
cân não Hoa
Kỳ đã xử
dụng để đưa
Tổng Tống
Thiệu tới
quyết định
rút quân
khỏi Tây
Nguyên, làm
mất cả miền
Nam.
KẾ HỌACH CỦA
CỘNG QUÂN
Nhân
kỷ niệm 30 năm ngày chiếm Ban Mê Thuột, trong một cuộc phỏng vấn đăng
trên nhật báo Nhân Dân của Đảng CSVN số ra ngày 10.3.1975, Thượng Tướng
Hoàng Minh Thảo, Tư Lệnh Mặt Trận Tây Nguyên, đã nói rằng sở dĩ Buôn Ma
Thuột được lựa chọn vì đây là điểm mà lực lượng miền Nam Việt Nam ít chú
ý hơn, có nhiều sơ hở và thuận lợi cho các đơn vị lớn hoạt động. Hơn
nữa, miền Nam Việt Nam và cả các cố vấn Mỹ vẫn tin rằng miền Bắc chưa đủ
sức đưa quân vào Buôn Ma Thuột vào thời điểm đó.
Khi
được đài BBC phỏng vấn, Tướng Thảo trả lời còn tệ hơn, ông chỉ lặp lại
những luận điệu bố lếu bố láo cũ đã lỗi thời khiến người nghe phải bực
mình, nên chẳng cho biết thêm được gì. Điều này cũng dễ hiểu thôi: Tướng
Hoàng Minh Thảo là cấp thừa hành, chỉ đâu đánh đó, có trình độ văn hóa
thấp và chỉ có tầm nhìn chiến thuật, nên không thể biết được kế hoạch
của Bộ Chính Trị và Quân Ủy Trung Ương ở Hà Nội như thế nào.
Như chúng tôi đã nói nhiều lần, muốn
chiếm miền Nam một cách nhanh chóng, kế hoạch của Hà Nội là phải đánh
thẳng vào Sài Gòn, đầu não của miền Nam, bỏ qua các tỉnh miền Trung. Muốn thực hiện điều dó, Tướng Văn Tiến Dũng cho biết Hà Nội đã quyết định cho làm
lại con đường Đông Trường Sơn, tức quốc lộ 14, bắt đầu từ Khe Hó ở
Quảng Trị, xuống tận Tà Thiết ở Bình Long, tức vùng Chiến Khu Đ.
Công trình này đã được khởi sự từ năm 1973, xử dụng khoảng 30.000 bộ đội
và thanh niên xung phong. Khi làm con đường này, có hai cái chốt phải
nhổ mới có thể khai thông được, đó là Thường Đức ở phía tây Đà Nẵng và Đức Lập, ở phía tây Ban Mê Thuột.
Trong cuốn “Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm” Tướng Trần Văn Trà cho biết vào tháng 10 năm 1974, ông và Phạm Hùng ra Bắc họp, Bộ Chính Trị đã ra lệnh tại Nam Tây Nguyên phải mở hành lang chiến lược đoạn Đức Lập cho thông suốt. Năm 1976 sẽ bắt đầu đánh lớn.
Tại sao phải chiếm Đức Lập?
Đức
Lập thuộc tỉnh Quảng Đức, một tỉnh nằm ở phía nam Ban Mê Thuột và sát
vùng ngã ba biên giới Việt – Miên- Lào. Năm 1910, một người Pháp tên là
Henri Maitre đi thám hiểm vùng Tây nguyên đã khám phá ra vùng ba biên
giới này. Nhưng khi người Pháp đến lập các căn cứ tại đây thì bị người
Thượng chống trả rất quyết liệt. Năm 1932, Đại Úy Mallard từ Bandon
thuộc tỉnh Darlac, đã theo sông Dak Dam đi lên và khám phá ra vùng
DAKMIL nằm sát vùng Tam Biên là nơi có đất rất tốt, nên xin bình định và
lập một đồn tại đây để kiểm soát và khai thác. Sau đó, Pháp đã cho làm
một liên tỉnh lộ nối liền Bandon với Darmil dài 55 cây số và đặt tên là
Liên tỉnh lộ 6. Vùng Dakmil là quận Đức Lập sau này.
Quốc
lộ 14, sau khi chạy qua Ban Mê Thuột, đã đi vào Đức Lập rồi chia thành
hai nhánh, một nhánh đi thẳng qua Phước Long và Bình Long, nối liền với
đầu quốc lộ 13, một nhánh đi về Gia Nghĩa rồi quẹo qua Kiến Đức, vào
Phước Long và gọi là quốc lộ 14B.
Năm
1959, khi các hoạt động của Cộng quân gia tăng ở vùng Cao Nguyên và
Chiến Khu Đ, chính phủ Ngô Đình Diệm đã quyết định thành lập tỉnh Quảng
Đức để kiểm soát vùng Tam Biên và chặn đường đi xuống Chiến Khu Đ của
Cộng quân. Tỉnh này gồm 3 quận là Kiến Đức, Khiêm Đức và Đức Lập. Tỉnh
lỵ đặt tại Gia Nghĩa.
Tại sao phải chiếm chốt Thượng Đức?
Để khai thông Thường Đức ở Tây Nam Đà Nẵng, trong hai tháng 7 và 8 năm 1974, Cộng quân đã huy động gần 3 sư đoàn thiện chiến để thanh toán cái chốt này. Yếu kém vế quân sự, Tướng Trưởng quyết định chỉ cho Tiểu Đoàn 79 BĐQ
giữ
Thương mà thôi vì cho rằng điểm đó không có gì quan trọng. Nhưng sau
khi Thường Đức bị mất, Tổng Thiệu và cơ quan DAO ra lệnh phải chiếm lại
bằng mọi giá, Tướng Tưởng mới ra lệnh cho Sư Đoàn Đù tài chiến Thường
Đức.
Ngày
19.9.1974, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù báo cáo đã chiếm được đỉnh 1062. Ngày
2.10.1974, Tiểu đoàn 2 và Thiểu Đoàn 9 Nhảy Dù mở cuộc lục soát ở khu
vực quanh đồi 1062 và dãy Sơn Gà, khám phá ra khoảng 300 xác địch và bắt
sống được 7 tù binh thuộc Sư Đoàn 304. Một tuần sau, Sư Đoàn 304 lại mở
cuộc tấn công tái chiếm đỉnh 1062. Nhưng nhờ pháo binh và phi cơ yểm
trợ, các đơn vị Dù vẫn giữ vững đồi 1062.
Ngày
19.9.1974, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù báo cáo đã chiếm được đỉnh 1062. Ngày
2.10.1974, Tiểu đoàn 2 và Thiểu Đoàn 9 Nhảy Dù mở cuộc lục soát ở khu
vực quanh đồi 1062 và dãy Sơn Gà, khám phá ra khoảng 300 xác địch và bắt
sống được 7 tù binh thuộc Sư Đoàn 304. Một tuần sau, Sư Đoàn 304 lại mở
cuộc tấn công tái chiếm đỉnh 1062. Nhưng nhờ pháo binh và phi cơ yểm
trợ, các đơn vị Dù vẫn giữ vững đồi 1062.
Trận chiến tiếp tục kể ngày 18.7.1974 đến ngày 11.11.1974 đã đem lại những kết quả nghiệm trọng như sau như sau:
Về nhân mạng:
Theo sự ước tính của cơ quan tình báo Hoa Kỳ, khoảng 2000 Cộng quân đã
bị thiệt mạng và 5000 bị thương. Về phía VNCH, Tiểu Đoàn 79 BĐQ không
còn nữa. Lực lược Nhảy Dũ cả chết lẫn bị thương gần đến 50 phần trăm , tức mất một
nữa quân số!
Về lãnh thổ:
Lực Lượng Nhảy Dù đã chiếm lại được đồi 1062 ở phía đông Thường Đức,
nhưng không tái chiếm được quận lỵ Thường Đức, nơi có được 14 đi qua.
Cộng
quân làm khúc đường 14 từ Quảng Nam đến Phước Long ở cả hai chiều cùng
một lúc, một chiều từ Phước Long đi lên Quảng Đức và một chiều từ Quảng
Nam đi vào. Tại khúc Kontum, Pleiku và Ban Mê Thuột, Quân Lực VNCH đang
trần đóng trên quốc lộ 14, nên Cộng quân phải làm con đường thứ hai đi
vòng sau Kontum, Pleiku và Ban Mê Thuột để vào Quảng Đức và đặt tên là
Quốc lộ 14A. Khi tới Đức Lập, con đường bị kẹt ở đây nên Cộng quân phải
thanh toán Đức Lập bằng mọi giá. Tuy nhiên, chiếm xong Đức Lập mà muốn
giữ vững cái chốt này, phải chiếm luôn Ban Mê Thuột vì từ Ban Mê Thuộc,
quân lực VNCH có thể đánh chiếm lại.
Ban
Mê Thuột là tỉnh lỵ của tỉnh Darlac, có độ cao khoảng 536 thước và cách
Sài Gòn 353 cây số. Vùng đất này ngày xưa thuộc sắc tộc Rhadé Kpa, do
tù trưởng Ama Y Thuột cai quản (có sách viết là Maya Thuột). Theo truyền
tụng, trước đây Ban Mê Thuột được gọi là Buôn Ma Thuột, vì theo
thổ ngữ của sắc tộc Rdadé, Buôn có nghĩa là làng hay ấp, Ma là ông, còn
Thuột là tên riêng. Buôn Ma Thuột là làng của ông Thuột. Năm 1923 tỉnh
Darlac được thành lập và đặt dưới quyền cai trị của Công Sứ Sabatier.
Đây là một vùng đất phì nhiêu và là cửa ngỏ quan trọng của đường giao
thông từ Tây Nguyên xuống Nam Phần.
KHÔNG NHẬN RA KẾ HOẠCH CỦA ĐỊCH
Như
chúng tôi đã trình bày trong số ra ngày 1.4.1975, trong cuộc họp vào
đầu tháng 10 năm 1974 tại Dinh Độc Lập, Tướng Phạm Văn Phú đã nhận định:
“Đối phương có thể đẩy nỗ lực chính vào việc đánh mạnh Kontum – Pleiku, cắt đường 14, đường 19 (nối Quy Nhơn với Pleiku).”
Ông
không tiên đoán được Cộng quân sẽ đánh Đức Lập và Ban Mê Thuột để khai
thông đường Đông Trường Sơn. Cộng quân không hề định đánh Kontum hay
Pleiku như ông đoán.
Tướng Nguyễn Văn Thiệu cũng không nắm vững chiến lược và chiến thuật của địch nên đã nhận định rất vu vơ: “Có
thể Cộng Sản sẽ mở tiến công trong Đông – Xuân, quy mô lớn hơn 1972,
kéo dài cả năm. Mục tiêu chung nhằm đánh phá bình định và diệt nguồn
sinh lực của ta. Có thể Cộng Sản đánh chiếm Quảng Trị trên cơ sở cô lập
Huế – Đà Nẵng. Lấy Kontum để áp lực Bắc Bình Định, lấy Tây Ninh làm thủ
đô và ung thối đồng bằng sông Cửu Long.” Rõ rằng Tướng Thiệu không hiểu gì về chiến lược và chiến thật dủa địch.
Tướng
Trần Văn Minh, Tư Lệnh Không Quân, đã báo cáo rằng theo không ảnh, Cộng
quân đã khai thông được đường Đông Trường Sơn và hệ thống ống dẫn dầu
đã phát triển tới tây bắc Bến Giằng (tức Thường Đức, Quảng Nam). Nhưng
chẳng ai thèm để ý.
TIN TỨC TÌNH BÁO DỒN DẬP
Đại
Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 của Quân Đoàn 2, kể lại rằng nhờ hệ thống
truyền tin điện tử, Quân Đoàn 2 VNCH đã mở được hầu hết các khóa mật mã
của Cộng Quân đánh đi. Nhờ vậy, từ tháng 12 năm 1974 Quân Đoàn 2 đã
biết được Cộng quân đang chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột.
Đại Tá Phùng Văn Quang, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 45 thuộc Sư Đoàn
23 cho biết một tiểu đoàn của Trung Đoàn 45 đang hành quân trên quốc lộ
14 gần quận Thuần Mẫn thì một cán binh Việt Cộng ra xin đầu thú. Anh ta
khai tên là Sinh (có người nói là Sính), một sĩ quan truyền tin, có
nhiệm vụ bắt đường dây điện thoại ngang qua quốc lộ 14 nối liền Bộ Tư
Lệnh Sư Đoàn 320 ở phía tây quốc lộ này với một đơn vị đang đóng ở quận
Thuần Mẫn. Khi điều tra thì khám phá ra anh ta chỉ là một Thượng Sĩ chớ
không phải sĩ quan. Vì giữ nhiệm vụ truyền tin, anh ta biết khá nhiều về
kế hoạch hành quân của Sư Đoàn 320 và các đơn vị phối hợp. Anh cho biết
Sư Đoàn 320 đang đóng ở phía tây quốc lộ 14 gần quận Buôn Hô và đang
chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột. Khi tin này được báo về Quân Đoàn 2, Tướng
Phú ra lệnh Trung Đoàn 45 cho một tiểu đoàn hành quân lục soát hai bên
quốc lộ 14, từ Ban Mê Thuột đến Pleiku để phát hiện địch. Đại Tá Quang
nói ông đã cho lục soát nhưng không thấy gì. Sau này ông tiết lộ rằng
tiểu đoàn đó chỉ lục soát mỗi bên quốc lộ 14 khoảng 1 cây số, trong khi
Sư Đoàn 320 đóng xa quốc lộ đến 5 cây số nên không thể phát hiện được.
Khi không khám phá ra địch, tên Sinh đồng ý hướng dẫn trực thăng đến
trên vùng Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 320 đang đóng. Đại Tá Quang nói rằng theo
sự chỉ dẫn của tên Sinh, ông đã nhìn thấy phía dưới các cơ sở chứng minh
có địch đang đóng quân tại đó và đã báo cáo cho Tướng Phú biết.
Mặc
dầu có tin Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 320 đã chuyển từ Kontum về phía bắc Ban
Mê Thuột, nhưng cơ quan truyền tin của Quân Đoàn 2 cho biết họ vẫn nhận
được các tín hiệu truyền tin của Sư Đoàn này phát đi từ một căn cứ ở
Kontum. Căn cứ vào báo cáo này, Tướng Phú cho rằng Sư Đoàn 320 vẫn còn
tại Kontum và những lời khai của tên Sinh chỉ là một kế nghi binh của
địch để đánh Pleiku.
Trong
thực tế, Sư Đoàn 320 đã chuyển về phía bắc Ban Mê Thuột nhưng tiếp tục
cho phát các tín hiệu truyền tin từ Kontum để đánh lạc hướng.
Đầu
tháng 2/1975, Phòng 2 Quân Đoàn khám phá ra một thông báo của Cộng quân
về cuộc họp vào ngày 1.2.1975 của Tư Lệnh các Sư Đoàn 320, F.10 và 968
tại vùng phía tây Đức Cơ để khai triển chiến dịch 275. Thông báo này do
một người tên Tuấn ký tên. Tuấn là một trong những bí danh của Văn Tiến
Dũng.
Một
nữ du kích hồi chánh ở Ban Mê Thuột cho biết Trung Đoàn 25 của Cộng
quân đã được lệnh ăn Tết trước để chuyển quân về vùng Khánh Dương ở phía
đông Ban Mê Thuột và một số đơn vị thuộc Sư Đoàn F.10 đã có mặt xung
quanh quận Đức Lập, phía tây nam Ban Mê Thuột. Các thợ rừng báo cáo họ
thấy nhiều đơn vị Cộng quân lẩn quẩn trong vùng phía bắc và phía tây Ban
Mê Thuột... Những tin tức này cho thấy Cộng quân đang chuẩn bị đánh Ban
Mê Thuột.
Trung
Tá Ngô Văn Xuân, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 44, cho biết vào Tết Ất
Mão (1975), Trung Đoàn 44 đang đóng ở căn cứ 801, cách tỉnh lỵ Pleiku
khoảng 20 cây số về hướng tây bắc, đã được Quân Đoàn 2 chỉ định tiếp đón
Tổng Thống đến ăn Tết. Đúng 12 giờ trưa ngày mồng một Tết (11.2.1975), Tổng Thống từ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 đến Trung Tâm Hành Quân của Trung Đoàn 44 bằng trực thăng cùng với các Tướng Trần Văn Trung, Lê Nguyên Khang và Phạm Văn Phú. Tại đây, Trung Tá Điều Ngọc Chuy, Trưởng Phòng 2 Sư Đoàn 23,
đã trình bày về tình hình chung của các khu vực trách nhiệm đang do Sư
Đoàn 23 trấn giữ, đặc biệt nhấn mạnh đến chi tiết về cung từ của một cán
binh cộng sản thuộc Sư Đoàn 320 ra đầu thú cho biết rõ các chi tiết
địch đang chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột. Tổng
Thống có vẽ đăm chiêu rồi quay lại hỏi Tướng Phú. Tướng Phú nhận định
rằng có thể Việt Cộng đưa ra một kế trá hàng nhằm đánh lạc hướng chú ý
của ta. Theo ông,
Pleiku là điểm, Ban Mê Thuột chỉ là diện, bởi vì Pleiku có cơ sở đầu não
là BTL Quân Đoàn 2. Nếu địch tiêu diệt được cứ điểm này, chúng sẽ dễ
dàng làm chủ được toàn bộ Cao Nguyên và tỏa xuống khu vực duyên hải. Tổng Thống Thiệu suy nghĩ trong giây lát, rồi ra lệnh cho Tướng Phú đưa toàn bộ Sư Đoàn 23 về lại Ban Mê Thuột.
Tổng Thống nói địa thế Pleiku là khu vực trống trải, bao gồm nhiều đồi
thấp và trọc, có tầm quan sát rộng, địch không bao giờ dám đương đầu
trên những khoảng trống như vậy. Tổng Thống hứa sẽ cho thêm một Liên Đoàn Biệt Động Quân để làm lực lượng trừ bị. Tướng Phú đáp: “Xin tuân lệnh!”
Sau
khi nghe thuyết trình, Tổng Thống Thiệu không đi Kontum như đã dự định
mà đến Ban Mê Thuột và Quảng Đức để thăm và ủy lạo các binh sĩ.
Đại Tá Trịnh Tiếu cho
biết ngày 15.2.1975, Tướng Phú đã mở một cuộc họp tại Quân Đoàn 2 để
kiểm điểm tình hình trong Quân Khu 2, có Lãnh Sự Mỹ ở Nha Trang lên tham
dự. Đại Tá Tiếu đã trình bày thêm các tài liệu cho biết địch sẽ đánh
Ban Mê Thuột, nhưng Tướng Phú cứ chần chờ, không chịu ra lệnh chuyển
quân.
Trung Tá Ngô Văn Xuân
cho biết đến ngày 17.2.1975 Tướng Phú mới triệu tập phiên họp để đặt kế
hoạch chuyển quân về Ban Mê Thuột theo lệnh Tổng Thống. Theo kế hoạch
này, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 sẽ di chuyển bằng đường bộ, khi qua khu đèo
Tử Sĩ, Trung Đoàn 45 sẽ đi theo tháp tùng. Trung Đoàn 44 đợi một Liên
Đoàn Biệt Động Quân đến thay thế trong vòng 3 ngày và sẽ đi sau.
Tám giờ sáng ngày 18.2.1975, đoàn quân tập trung tại căn cứ Hàm Rồng để khởi hành, nhưng
đến 11 giờ Tướng Phú ra lệnh hủy bỏ việc chuyển quân. Ông nói địch sẽ
đánh Pleiku và việc địch chuyển quân quanh Ban Mê Thuột là để nghi binh
mà thôi. Lệnh của Tướng Phú đã làm cả Quân Đoàn 2 ngạc nhiên.
(Còn tiếp)
Lữ Giang
Tường thuật Người về từ mặt trận Thường Đức .
Tình hình hoạt động của địch ngày càng gia tăng . Các Toán của Ba Đoàn 11 , 71 , và 72 Sở Công Tác đã liên tục được thả xuống hoạt động khắp các vùng rừng núi trên lảnh thỗ Vùng 1 Chiến Thuật
Đơn vị hành quân cấp Toán , cho nên bộ chỉ huy hành quân tiền phương các Đoàn luôn đặt trong doanh trại của các đơn vị bạn , tùy theo vùng hoạt động của Đoàn mình .
Sáng nay , giờ G . ngày N . Phi đoàn KingBee , đậu sẵn trên sân của Đoàn 71.
Sau khi các Pilot rời phòng thuyết trình Hành Quân , ba chiếc tàu nổ máy chuẫn bị phi vụ đầu , hai tàu đưa Bộ Chĩ Huy Hành Quân. Đ 71 lên căn cứ Thường Đức , đồn trú trong bãn doanh của Tiểu Đoàn 79 Biệt Động Quân Biên Phòng , ( gồm có Thiếu Tá Bùi Văn Thiện ,Chi huy Trưỡng Đoàn Công Tác 71 . Đại Úy Lộc Ban3 /HQ . một Sỉ quan ban 2( quên tên ) . Trung sỉ nhất Bùi Ngọc Bình và một Hạ Sỉ ban Truyền tin .)
Một tàu khác đưa Đài Tiếp vận lên bản doanh của Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân tại đồi 51 phía Đông Nam Cầu Đõ quốc lộ 1 .
Trước khi tàu cất cánh ,phi hành đoàn nói với chúng tôi ( ĐTV )
- Phòng Hành Quân Liên Đoàn 14 BĐQ cho biết , tình hình bải đáp tại đồi 51 nơi chúng ta sắp đến không an toàn, vì bãi nầy nằm trong tầm đạn 12 ly 7 và súng cối , chúng đặt tại núi Bàn cờ bắn liên tục vào đây . Chuyến nầy rất nguy hiễm .Về kỹ thuật đáp, chúng tôi sẽ tạo yếu tố bất ngờ cho địch quay súng không kịp , các anh phải chuẫn bị tư thế , rời tàu rất nhanh khi chúng tôi báo tín hiệu , tôi đề nghị các anh chạm đất là lăn ngay vào giao thông hào .
Tàu chở chúng tôi bay dọc theo bờ biễn ,qua khỏi Non Nước vòng lại hướng Tây ,bay thật thấp gần sát ngọn tre ,vòng nhanh về hướng Bắc rồi sà thấp xuống gần sát mặt đất, tàu hơi chậm lại chúng tôi nhãy xuống , lăn ngay vào giao thông hào như lời dặn của các anh Pilot, tàu vụt lao về phìa trước , nhiều trái đạn pháo , nổ chung quanh nơi chúng tôi vừa xuống .
Vào tần số của Liên Đoàn 14 BĐQ để báo cáo chúng tôi đã đến và đang ngoài giao thông hào , Liên Đoàn cho biết đi vòng theo điạ đạo sẽ gặp đường vào .
Một chiếc bàn kê trong góc hầm Trung tâm Hành Quân của Liên Đoàn , chúng tôi đặt máy nối liên lạc từ Bộ chỉ Huy Hành Quân tiền phương Thường Đức về Sơn Trà bộ chỉ huy Sở Công Tác . Theo dỏi cuộc điện đàm thả Toán qua máy Vô Tuyến AN/PRC 25 giữa Sĩ Quan Tiền không sát và Liên Toán Trưỡng ,kết quả các Toán đã xâm nhập vùng hoạt động của họ an toàn .
Đồi 51 nơi chúng tôi đang đặt Đài Truyền Tin tiếp vận, cách Sơn trà chưa đầy 15 phút trực thăng, như vậy cách Đà nẵng càng gần hơn . Mấy trái đạn nổ chúng chào người mới tới, chúng bắn rất chuẫn xác , may mà phi hành đoàn tạo yếu tố bất ngờ mới bay qua nguy hiễm , chúng tôi kịp lăn ngay xuống giao thông hào nếu không thì tiêu cã rồi .
Đồi nầy nằm trong tầm hiệu lực của đạn súng cối thì rất gần đây , một cái gai trước mắt Liên Đoàn 14 BĐQ , tại sao không nhổ để chúng ngang nhiên quậy phá .
( Đó là suy nghĩ của tôi , một sĩ quan tý tẹo ) .
Leo lên ụ bao cát phòng thũ trên hầm Hành Quân,đưa cần anten ra lỗ châu mai ,lợi dụng cơ hội tôi dùng ống nhòm , nhìn xem núi Bàn cờ ra sao. Hướng Tây, một ngọn đồi trọc không xa đồi 51 bao nhiêu , trên có một khối đá đen, mặt phằng, nhìn qua giống như một cái nhà mái bằng , có lẻ khối đá đó vuông nên họ đặt tên là bàn cờ .
Nhìn qua hướng Đông mấy ngọn đồi thấp hơn , đồi nào cũng nhiều ụ pháo , đó là căn cứ Pháo Binh của mình .( Không biết tên đơn vị ) Như vậy đồi 51 nằm giữa , Tây là pháo binh Việt cọng , Đông là Pháo binh của ta .
Tối hôm đó khoãng 10 giờ .Loa khuếch âm máy AN/PRC 25 vang tiếng nói anh Bùi Ngọc Bình từ Thường Đức.
- Chúng nó pháo kích dữ quá anh ơi .
Vừa dứt tiếng là Bộ chỉ huy LĐ 14 .BĐQ. cũng bị pháo kích dử dội , tôi bốc máy báo về Bộ Chỉ Huy Sở ;
- Căn cứ Thường Đức và đồi 51 nơi chúng tôi đóng , đang bị pháo kích .
Giọng nói Thiếu tá phùng Xuân Vinh trưỡng phòng 3 Sở Công Tác vang lên trong máy.
- Giữ liên lạc, báo cáo thường xuyên tình hình của anh và Thường Đức .
Tôi gọi Thường Đức liên tục nhưng không trã lời , vào hầm chĩ huy Liên đoàn định hỏi thăm tình hình Tiểu Đoàn 79 BĐQ trên đó ra sao , nhưng hệ thống truyền tin bận , Trung Tá Liên đoàn Trưỡng đang chỉ huy phòng thủ căn cứ .
Có tiếng vang lên trong loa :
- Tụi nó tấn công hướng Đông , Pháo binh đang bắn trực xạ .
Một tiếng khác lại vang lên .
- Xin soi sáng để kiễm soát vòng đai phòng thủ .
Các hệ thống vô tuyến của Liên đoàn làm việc không hở .
Lại có tiếng vang lên .
- Tụi nó bắt đầu tấn công , xin soi sáng gấp .
Tôi để ý lần xin soi sáng đầu cách đây gần 20 phút , bây giờ họ xin lại lần nữa ,như vậy là chưa có ,tôi lắng nghe trưỡng ban 3 Liên Đoàn điện đàm với Bộ chỉ Huy BĐQ Vùng( Xin can thiệp yễm trợ soi sáng gấp , địch đang dồn hỏa lực tấn công ).
Tôi báo cáo tình hình nghe được nơi đây với Phòng 3 Sở . Mấy phút im lặng , Trưỡng phòng hành quân Sở Công Tác báo ( chậm lắm là 5 phút sẽ có Hỏa long lên ) và cho biết số 1 đã lấy Danh hiệu đài tôi , tôi hỏi lại 1 nhà mình hay 1 lớn . Trả lời ( 1 lớn ). Hai phút sau tiếng của Trung Tướng Tư Lệnh QD 1. vang qua máy :
- Quang Trung đây , Hõa long đang làm việc , tôi trên căn cứ các anh , .Non Nước có liên lạc được với Bờ Ra vô không ? ( BraVo là danh hiệu đài anh Bùi Ngọc Bình ở Th/Đức .)Tôi trả lời ( dạ không ) .
Quang Trung muốn gặp Tăng Gô .( Xin Quang Trung đợi ) , Tôi hỏi nhỏ Tăng Gô là Ai , Tr/Tá Liên Đoàn Bốc máy . Chúng tôi tránh ra cho hai vị chỉ huy trao đỗi với nhau . Từ đó cho đến khi lắng tiếng súng cũng khoãng gần 4 giờ sáng , chốc chốc tiếng nói của Quang Trung vang lên trên hệ thống .
Sau nầy tôi mới biết Tăng Gô là Tr/Tá Chung Thanh Tòng .
6 Giờ sáng tôi nghe lóm tình hình đêm qua , sau 4 đợt tấn công , địch chịu không nỗi , rút lui bỏ lại quanh vòng dai nhiều xác chết , còn phía bên pháo binh chưa rỏ .
Tình hình Thường Đức vẫn không liên lạc được .
8 Giờ sáng phi cơ của Tiền Không sát đã vào vùng Thường Đức để thám sát và liên lạc nhưng vẫn im lặng .
Chúng tôi trở về Hậu cứ Đoàn sau một tuần nằm lại đó chờ đợi , vẫn không nhận được một thông tin gì của Thường Đức .
Suốt 3 tuần lễ , các Sĩ Quan Tiền không sát thay nhau bay L.19 vào vùng Thường Đức tìm kiếm . Ghi nhận ban đầu , Bộ chỉ Huy tiền phương Đoàn Công tác 71 mất tích .
Lệnh của Quân đoàn các đơn vị địa phương ,hành quân tìm kiếm quân nhân trong địa bàn trách nhiệm của mình .
Cuối tuần thứ 4 kể từ đêm đó , một đơn vị Địa Phương Quân đã gặp Thiếu Tá Bùi Văn Thiện , trở về với hai cây súng , một côn 45 súng cá nhân , và một CKC của địch,đó là chiến lợi phẫm .
Ông đã được Tư Lệnh QĐ 1 , thăng đặc cách Trung Tá .
( Từ đêm bị pháo kích cho đến khi trỡ về gần 1 tháng , các bạn muốn biết hành trình thoát hiễm như thế nào xin liên lạc trực tiếp với Tr/Tá Bùi văn Thiện đang dịnh cư tại TX . hay gặp tại Đại hội lần 8 sắp tới ) .
Trận tái chiếm Thượng Đức ông Trương Dưỡng đã tường thuật nhiều phần , nhiều giai đoạn tiến công cam go của Sư Đoàn Dù, trận chiến đấu trên địa hình phức tạp , đã chiến thắng lẫy lừng viết lên một trang sữ hào hùng của QLVNCH .
Ngôn Nguyễn DCT 71 .
Tình hình hoạt động của địch ngày càng gia tăng . Các Toán của Ba Đoàn 11 , 71 , và 72 Sở Công Tác đã liên tục được thả xuống hoạt động khắp các vùng rừng núi trên lảnh thỗ Vùng 1 Chiến Thuật
Đơn vị hành quân cấp Toán , cho nên bộ chỉ huy hành quân tiền phương các Đoàn luôn đặt trong doanh trại của các đơn vị bạn , tùy theo vùng hoạt động của Đoàn mình .
Sáng nay , giờ G . ngày N . Phi đoàn KingBee , đậu sẵn trên sân của Đoàn 71.
Sau khi các Pilot rời phòng thuyết trình Hành Quân , ba chiếc tàu nổ máy chuẫn bị phi vụ đầu , hai tàu đưa Bộ Chĩ Huy Hành Quân. Đ 71 lên căn cứ Thường Đức , đồn trú trong bãn doanh của Tiểu Đoàn 79 Biệt Động Quân Biên Phòng , ( gồm có Thiếu Tá Bùi Văn Thiện ,Chi huy Trưỡng Đoàn Công Tác 71 . Đại Úy Lộc Ban3 /HQ . một Sỉ quan ban 2( quên tên ) . Trung sỉ nhất Bùi Ngọc Bình và một Hạ Sỉ ban Truyền tin .)
Một tàu khác đưa Đài Tiếp vận lên bản doanh của Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân tại đồi 51 phía Đông Nam Cầu Đõ quốc lộ 1 .
Trước khi tàu cất cánh ,phi hành đoàn nói với chúng tôi ( ĐTV )
- Phòng Hành Quân Liên Đoàn 14 BĐQ cho biết , tình hình bải đáp tại đồi 51 nơi chúng ta sắp đến không an toàn, vì bãi nầy nằm trong tầm đạn 12 ly 7 và súng cối , chúng đặt tại núi Bàn cờ bắn liên tục vào đây . Chuyến nầy rất nguy hiễm .Về kỹ thuật đáp, chúng tôi sẽ tạo yếu tố bất ngờ cho địch quay súng không kịp , các anh phải chuẫn bị tư thế , rời tàu rất nhanh khi chúng tôi báo tín hiệu , tôi đề nghị các anh chạm đất là lăn ngay vào giao thông hào .
Tàu chở chúng tôi bay dọc theo bờ biễn ,qua khỏi Non Nước vòng lại hướng Tây ,bay thật thấp gần sát ngọn tre ,vòng nhanh về hướng Bắc rồi sà thấp xuống gần sát mặt đất, tàu hơi chậm lại chúng tôi nhãy xuống , lăn ngay vào giao thông hào như lời dặn của các anh Pilot, tàu vụt lao về phìa trước , nhiều trái đạn pháo , nổ chung quanh nơi chúng tôi vừa xuống .
Vào tần số của Liên Đoàn 14 BĐQ để báo cáo chúng tôi đã đến và đang ngoài giao thông hào , Liên Đoàn cho biết đi vòng theo điạ đạo sẽ gặp đường vào .
Một chiếc bàn kê trong góc hầm Trung tâm Hành Quân của Liên Đoàn , chúng tôi đặt máy nối liên lạc từ Bộ chỉ Huy Hành Quân tiền phương Thường Đức về Sơn Trà bộ chỉ huy Sở Công Tác . Theo dỏi cuộc điện đàm thả Toán qua máy Vô Tuyến AN/PRC 25 giữa Sĩ Quan Tiền không sát và Liên Toán Trưỡng ,kết quả các Toán đã xâm nhập vùng hoạt động của họ an toàn .
Đồi 51 nơi chúng tôi đang đặt Đài Truyền Tin tiếp vận, cách Sơn trà chưa đầy 15 phút trực thăng, như vậy cách Đà nẵng càng gần hơn . Mấy trái đạn nổ chúng chào người mới tới, chúng bắn rất chuẫn xác , may mà phi hành đoàn tạo yếu tố bất ngờ mới bay qua nguy hiễm , chúng tôi kịp lăn ngay xuống giao thông hào nếu không thì tiêu cã rồi .
Đồi nầy nằm trong tầm hiệu lực của đạn súng cối thì rất gần đây , một cái gai trước mắt Liên Đoàn 14 BĐQ , tại sao không nhổ để chúng ngang nhiên quậy phá .
( Đó là suy nghĩ của tôi , một sĩ quan tý tẹo ) .
Leo lên ụ bao cát phòng thũ trên hầm Hành Quân,đưa cần anten ra lỗ châu mai ,lợi dụng cơ hội tôi dùng ống nhòm , nhìn xem núi Bàn cờ ra sao. Hướng Tây, một ngọn đồi trọc không xa đồi 51 bao nhiêu , trên có một khối đá đen, mặt phằng, nhìn qua giống như một cái nhà mái bằng , có lẻ khối đá đó vuông nên họ đặt tên là bàn cờ .
Nhìn qua hướng Đông mấy ngọn đồi thấp hơn , đồi nào cũng nhiều ụ pháo , đó là căn cứ Pháo Binh của mình .( Không biết tên đơn vị ) Như vậy đồi 51 nằm giữa , Tây là pháo binh Việt cọng , Đông là Pháo binh của ta .
Tối hôm đó khoãng 10 giờ .Loa khuếch âm máy AN/PRC 25 vang tiếng nói anh Bùi Ngọc Bình từ Thường Đức.
- Chúng nó pháo kích dữ quá anh ơi .
Vừa dứt tiếng là Bộ chỉ huy LĐ 14 .BĐQ. cũng bị pháo kích dử dội , tôi bốc máy báo về Bộ Chỉ Huy Sở ;
- Căn cứ Thường Đức và đồi 51 nơi chúng tôi đóng , đang bị pháo kích .
Giọng nói Thiếu tá phùng Xuân Vinh trưỡng phòng 3 Sở Công Tác vang lên trong máy.
- Giữ liên lạc, báo cáo thường xuyên tình hình của anh và Thường Đức .
Tôi gọi Thường Đức liên tục nhưng không trã lời , vào hầm chĩ huy Liên đoàn định hỏi thăm tình hình Tiểu Đoàn 79 BĐQ trên đó ra sao , nhưng hệ thống truyền tin bận , Trung Tá Liên đoàn Trưỡng đang chỉ huy phòng thủ căn cứ .
Có tiếng vang lên trong loa :
- Tụi nó tấn công hướng Đông , Pháo binh đang bắn trực xạ .
Một tiếng khác lại vang lên .
- Xin soi sáng để kiễm soát vòng đai phòng thủ .
Các hệ thống vô tuyến của Liên đoàn làm việc không hở .
Lại có tiếng vang lên .
- Tụi nó bắt đầu tấn công , xin soi sáng gấp .
Tôi để ý lần xin soi sáng đầu cách đây gần 20 phút , bây giờ họ xin lại lần nữa ,như vậy là chưa có ,tôi lắng nghe trưỡng ban 3 Liên Đoàn điện đàm với Bộ chỉ Huy BĐQ Vùng( Xin can thiệp yễm trợ soi sáng gấp , địch đang dồn hỏa lực tấn công ).
Tôi báo cáo tình hình nghe được nơi đây với Phòng 3 Sở . Mấy phút im lặng , Trưỡng phòng hành quân Sở Công Tác báo ( chậm lắm là 5 phút sẽ có Hỏa long lên ) và cho biết số 1 đã lấy Danh hiệu đài tôi , tôi hỏi lại 1 nhà mình hay 1 lớn . Trả lời ( 1 lớn ). Hai phút sau tiếng của Trung Tướng Tư Lệnh QD 1. vang qua máy :
- Quang Trung đây , Hõa long đang làm việc , tôi trên căn cứ các anh , .Non Nước có liên lạc được với Bờ Ra vô không ? ( BraVo là danh hiệu đài anh Bùi Ngọc Bình ở Th/Đức .)Tôi trả lời ( dạ không ) .
Quang Trung muốn gặp Tăng Gô .( Xin Quang Trung đợi ) , Tôi hỏi nhỏ Tăng Gô là Ai , Tr/Tá Liên Đoàn Bốc máy . Chúng tôi tránh ra cho hai vị chỉ huy trao đỗi với nhau . Từ đó cho đến khi lắng tiếng súng cũng khoãng gần 4 giờ sáng , chốc chốc tiếng nói của Quang Trung vang lên trên hệ thống .
Sau nầy tôi mới biết Tăng Gô là Tr/Tá Chung Thanh Tòng .
6 Giờ sáng tôi nghe lóm tình hình đêm qua , sau 4 đợt tấn công , địch chịu không nỗi , rút lui bỏ lại quanh vòng dai nhiều xác chết , còn phía bên pháo binh chưa rỏ .
Tình hình Thường Đức vẫn không liên lạc được .
8 Giờ sáng phi cơ của Tiền Không sát đã vào vùng Thường Đức để thám sát và liên lạc nhưng vẫn im lặng .
Chúng tôi trở về Hậu cứ Đoàn sau một tuần nằm lại đó chờ đợi , vẫn không nhận được một thông tin gì của Thường Đức .
Suốt 3 tuần lễ , các Sĩ Quan Tiền không sát thay nhau bay L.19 vào vùng Thường Đức tìm kiếm . Ghi nhận ban đầu , Bộ chỉ Huy tiền phương Đoàn Công tác 71 mất tích .
Lệnh của Quân đoàn các đơn vị địa phương ,hành quân tìm kiếm quân nhân trong địa bàn trách nhiệm của mình .
Cuối tuần thứ 4 kể từ đêm đó , một đơn vị Địa Phương Quân đã gặp Thiếu Tá Bùi Văn Thiện , trở về với hai cây súng , một côn 45 súng cá nhân , và một CKC của địch,đó là chiến lợi phẫm .
Ông đã được Tư Lệnh QĐ 1 , thăng đặc cách Trung Tá .
( Từ đêm bị pháo kích cho đến khi trỡ về gần 1 tháng , các bạn muốn biết hành trình thoát hiễm như thế nào xin liên lạc trực tiếp với Tr/Tá Bùi văn Thiện đang dịnh cư tại TX . hay gặp tại Đại hội lần 8 sắp tới ) .
Trận tái chiếm Thượng Đức ông Trương Dưỡng đã tường thuật nhiều phần , nhiều giai đoạn tiến công cam go của Sư Đoàn Dù, trận chiến đấu trên địa hình phức tạp , đã chiến thắng lẫy lừng viết lên một trang sữ hào hùng của QLVNCH .
Ngôn Nguyễn DCT 71 .
Trung Ta Bui Van Thien CHT/DCT 71
Trận Chiến Thường Ðức (Phần 1)
Vào mùa thu năm 1974, áp lực địch tại Vùng 1 Chiến Thuật gia
tăng khủng khiếp. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn đã họp các tư lệnh quân, binh chủng bàn
kế hoạch phòng thủ cuối cùng trên toàn Quân Khu, đặc biệt những điểm "nóng" như
Huế, Chu Lai, và Đà Nẳng.
Tại mặt trận Thường Đức, Sư Đoàn Nhảy Dù đã chiến thắng vẻ
vang trên ngọn đồi 1062. Tướng Cộng Sản Nguyễn Thị Định đã tuyên bố sẽ vào Đà
Nẵng như chỗ không người. Tuy nhiên, lời tuyên bố này đã bị lực lượng Nhảy Dù
xóa sổ và niêm phong. Viên tư lệnh lực lượng Bắc Việt tại Thường Đức đã mất chức
do bị thiệt hại nặng nề.
Trong suốt năm tháng miệt mài quần thảo vớiquân Bắc Việt, các
binh sĩ Nhảy Dù chưa từng thấy chiến trường nào mà quân Cộng Sản lại làm hầm hố
vô cùng kiên cố như mặt trận Thường Đức. Những hầm chữ A để chống bom được đào
sâu như những giếng nước, hoặc làm dưới những khe suối được che chở bằng vách đá
và cây rừng cổ thụ. Đường giây điện thoại chằng chịt như mạng lưới điện thoại ở
thành phố Saigon. Mọi sự liên lạc vô tuyến hạn chế để tránh bị quân đội Việt Nam
Cộng Hòa (VNCH) phát giác.
Dẫu thế, Phòng Truyền Tin của Sư Đoàn Nhảy Dù cũng đã bắt
được những mật điện quan trọng của địch và đã giải hóa một cách dễ dàng. Nhờ vậy
họ đã biết được kế hoạch điều quân của các lực lượng tham chiến Bắc Việt tại
Thường Đức.
Các chiến sĩ Nhảy Dù đã quần thảo với địch trên những đỉnh
núi cao liên tục hầu như không giây phút ngừng nghỉ. Miền rừng núi trùng điệp,
hiểm trở, và cao chất ngất không làm sờn lòng chiến đấu của họ. Từ chân núi nhìn
lên đỉnh cao vời vợi, người lính Nhảy Dù nghĩ đến sự tiếp vận khó khăn. Một bịch
gạo, một băng đạn, được chuyển vận thật là cả một vấn đề, thật gay go, gian nan,
và khổ cực (phải dùng dây kéo lên). Nhất là nước đâu để có thể nấu ăn trên những
rặng núi cao ngất từng mây.
Năm 1973, sau khi Hiệp Định Đình Chiến được ký kết tại Paris,
chiến cuộc Việt Nam tạm ngưng. Hai sư đoàn tổng trừ bị (Nhảy Dù và Thủy Quân Lục
Chiến) vẫn còn lưu giữ tại Quân Khu 1. Lấy Quốc Lộ 1 làm ranh giới, Sư Đoàn Nhảy
Dù trấn giữ phía Tây, dọc theo hành lang dãy Trường Sơn, và trách nhiệm luôn
phần bảo vệ an ninh Quốc Lộ 1, từ cây số 17 ra tới bờ sông Thạch Hãn (ở tỉnh
Quảng Trị). Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) trấn giữ phía Đông từ Quốc Lộ 1
ra đến bờ biển, đến tận Cổ Thành Quảng Trị ở phía Bắc. Các đơn vị thuộc Sư Đoàn
Nhảy Dù chiếm những cao địa, tiến sâu vào dãy Trường Sơn gần các căn cứ Ann
(Động Ông Đô), Barbara (đã giành lại được trong cuộc tổng phản công tái chiếm
Quảng Trị). Đây là 2 căn cứ chiến thuật chế ngự toàn vùng hành quân.
Từ Nam cây số 17 (căn cứ Hiệp Khánh, Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy
Dù) là trách nhiệm của các đơn vị cơ hữu thuộc Quân Ðoàn 1. Sư Đoàn 1 Bộ Binh
trấn đóng ở phía Bắc đèo Hải Vân. Phía Nam là trách nhiệm của Sư Đoàn 3 và Sư
Ðoàn 22 Bộ Binh. Cả hai khu vực Bắc và Nam đèo Hải Vân đều có các đơn vị Biệt
Động Quân, Địa Phương Quân, và Nghĩa Quân trấn giữ.
Đối đầu với Sư Đoàn Nhảy Dù là Sư Ðoàn 325 Trị Thiên của Bắc
Việt. Tuy danh xưng là Sư Ðoàn Trị Thiên, nhưng thực ra bộ đội của sư đoàn này
rất trẻ và nói toàn giọng Bắc. Tình hình tổng quát tại Quân Khu 1 lúc này tương
đối yên tĩnh. Vào những tháng cuối năm 1974, sau khi trao đổi tù binh với Hoa Kỳ
xong xuôi, Bắc Việt không ngần ngại vi phạm Hiệp Định Ba Lê để thực hiện ý đồ
xâm lăng thôn tính miền Nam bằng võ lực.
Qua các cuộc trắc nghiệm xem phản ứng của Hoa Kỳ bằng cách vi
phạm Hiệp Ước, họ mở cuộc tấn công vào tỉnh Phước Long cuối năm 1974, và một số
thị trấn khác thuộc Quân Khu 3. Thấy Hoa Kỳ không phản ứng gì nhiều, Cộng Sản
Bắc Việt bắt đầu tung các đơn vị chủ lực vào cuộc xâm lược Miền Nam Việt Nam. Bộ
đội, pháo binh, cơ giới của họ ngang nhiên di chuyển hàng hàng lớp lớp giữa ban
ngày, không cần ngụy trang ẩn nấp như xưa.
Cộng Sản Bắc Việt mở mặt trận lớn đầu tiên tại Vùng 1 Chiến
Thuật với ý đồ cầm chân các đơn vị tổng trừ bị thiện chiến. Hai sư đoàn 304 và
324 Bắc Việt, cùng các trung đoàn pháo, chiến xa bất thần đánh chiếm quận Thường
Đức thuộc tỉnh Quảng Nam. Là một điểm chiến lược vì địa thế núi rừng hiểm trở dễ
thủ khó công, Thường Đức ở phía Tây Nam Đà Nẵng khoảng 50 cây số, và phía Tây
giáp với Lào, nơi có đường mòn Hồ Chí Minh dùng để chuyển vận quân dụng tiếp tế
cho mặt trần Thường Đức này.
Trong vòng 2 năm, Bắc Việt đã không ngừng tu bổ đường mòn Hồ
Chí Minh và biến thành hệ thống tiếp vận này thành một "xa lộ không đèn." Mặt
đường rộng hơn 10 thước đủ cho xe xận tải di chuyển cả hai chiều. Ngoài ra Cộng
quân còn lập hệ thống dẫn dầu từ Bắc vào Nam, đi đến tận thị xã Lộc Ninh (ở tỉnh
Bình Long). Họ cũng tăng cường việc chuyển vận bộ đội chính qui, vũ khí, và
chiến cụ vào miền Nam gấp nhiều lần so với lúc trước. Tình hình Quân Khu 1 đổi
khác ngay vào cuối năm 1974. Áp lực địch gia tăng mạnh mẽ ở phía Nam đèo Hải
Vân.
SƠ LƯỢC DIỄN BIẾN
Ngày 8 tháng 8/1974, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù cùng 3 tiểu đoàn trực
thuộc được di chuyển vào vùng hành quân ở Đại Lộc thuộc Đà Nẵng. Trước đó một
ngày, Tiểu Đoàn 79 Biệt Ðộng Quân (BÐQ) bị quân Bắc Việt gây áp lực nặng nề tại
vùng trách nhiệm ở quận lỵ Thường Đức. Ngày 11 tháng 8/1974, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù
cùng 3 tiểu đoàn được lệnh di chuyển bằng phi cơ xuống phi trường Đà Nẵng sau
khi bàn giao khu vực trách cho Liên Ðoàn 15 Biệt Động Quân. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn
Nhảy Dù đặt bản doanh tại gần bờ biển Non Nước, phía Đông Thành phố Đà Nẵng.
Một dãy núi cao chạy dài từ sông Vu Gia và Liên Tỉnh Lộ 4 về
phía Bắc, những ngọn đồi thấp ở phía Nam của dãy núi này đã bị Trung Đoàn 29
Cộng Sản Bắc Việt chiếm giữ. Cho nên, mọi tiếp tế của đơn vị Biệt Động Quân
xuyên qua đèo Thường Đức đã bị ngăn chận. Điểm cao nhất của dãy núi này là 1235
nằm cách Tỉnh Lộ 4 khoảng 6 cây số về phía Bắc, và đỉnh 1062 ở phía Nam của Ðồi
1235 cách chỉ khoảng 2 cây số.
Bắc quân đã chiếm đỉnh đồi này để có thể quan sát đoạn đường
từ Đại Lộc đến Thường Đức, và họ đặt tiền sát viên điều chỉnh đại pháo bắn chính
xác vào khu dân cư và các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa ở Đại Lộc. Nhiệm vụ của các
đơn vị Nhảy Dù là phải chiếm đỉnh đồi 1062 và các cao điểm phía Nam tới Tỉnh Lộ
4. Và để giải tỏa sự hâm dọa tấn công các vùng phía Tây Đà Nẵng, Lữ Đoàn 3 Nhảy
Dù được giao phó nhiệm vụ ngăn chận địch xâm nhập vùng quận Hiếu Đức.
Ngày 18 tháng 8/1974, ba tiểu đoàn 1, 8, và 9 nhảy Dù vừa
vượt tuyến xuất phát thì đã chạm súng với những đơn vị thuộc Trung Đoàn 29 CSBV
ở phía Đông Đồi 52 (xã Hà Nha). Chính nơi đây Sư Đoàn 3 Bộ Binh đã phải rút lui
chiến thuật do áp lực địch quá đông đảo và vũ khí tối tân hơn. Sau một tháng
đánh nhau với 3 tiểu đoàn Nhảy Dù, hai bên đều bị thiệt hại nặng nề. Mặt Trận B3
của Cộng Sản ra lệnh Trung Ðoàn 31 thuộc Sư Đoàn 2 CSBV tới Thường Đức để tiếp
ứng cho Trung Đoàn 66 của Sư Đoàn 304 CSBV. Như vậy Trung Đoàn 66 có thế giúp đỡ
Trung Ðoàn 29, để họ rảnh tay tấn công các đơn vị Nhảy Dù.
Đầu tháng 9/1974, Trung Đoàn 24 của Sư Đoàn 304 Cộng Sản Bắc
Việt (CSBV, còn được gọi là sư đoàn "Ðiện Biên") cũng nhập vào trận chiến. Ngày
19 tháng 9/1974, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù báo cáo đã chiếm được đỉnh 1062. Trong khoảng
thời gian 2 tuần lễ khi quân đội đã làm chủ ngọn đồi 1062, thì Bắc Việt cho
Trung Đoàn 66 hợp với Trung Đoàn 29 và Trung Đoàn 24 (thiếu quân số) định dùng
số đông để áp đảo Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù.
Vào ngày 2 tháng 10/1974, Tiểu Đoàn 2 và 9 Nhảy Dù đang lục
soát ở khu vực quanh đồi 1062 và dãy Sơn Gà thì họ tìm được khoảng 300 xác bộ
đội Bắc Việt trên đỉnh 1062 trong giai đoạn 1 này. Ngoài ra, họ bắt sống được 7
tù binh thuộc Sư Ðoàn 304.
Suốt vài tuần sau, các binh sĩ Nhảy Dù đã chống trả rất nhiều
các cuộc tấn công của Sư Ðoàn 304 khi địch quân định giành lại đồi 1062. Bởi sự
điều khiển phi pháo chính xác của các sĩ quan chỉ huy Nhảy Dù, nên các đơn vị
này vẫn giữ vững đồi 1062 mặc dầu quân Bắc Việt đã pháo kích mãnh liệt và xử
dụng chiến thuật biển người định tràn ngập ngọn đồi này. Một trường hợp ngẫu
nhiên, khi Trung Ðoàn 24 CSBV đang xâm nhập vào vùng tử địa ở dọc theo đồi 383
và 126 thì bị hỏa lực tập trung của pháo binh Việt Nam Cộng Hòa đồng loạt khai
hỏa. Cuộc pháo kích này đã gây cho 250 bộ đội miền Bắc bị thiệt mạng.
Tính đến trung tuần tháng 10/1974, sau gần 2 tháng quần thảo
với hai sư đoàn địch quân, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù (gồm 4 tiểu đoàn tham chiến) đã bị
tổn thất vừa chết và bị thương khoảng 500 binh sĩ. Trong khi đó địch quân bị
thiệt mất trên 1,200 người.
Ngày 29 tháng 10 năm 1974, Trung Ðoàn 24 CSBV, sau khi được
tái bổ sung và tái trang bị, đã mở một cuộc tấn công khác vào đỉnh đồi 1062. Họ
dùng súng phóng hỏa đốt cháy dữ dội khiến các lực lượng Dù phải rút khỏi đỉnh
đồi này.
VNCTLS Ghi Chú: Sau khi đăng tải bài viết Mặt Trận Thường Đức
một thời gian khá lâu, chúng tôi nhận được email của một cựu chiến binh
Bắc Việt. Trong thư, ông cho biết đã từng tham gia trận đánh này từ đầu
đến cuối. Và ông cũng cho biết thêm một ít chi tiết về trận đánh ở
Thường Đức. Chúng tôi xin trích đăng một phần lá thư này cùng quý vị độc
giả.
"Tôi là một người tham gia vào chiến dịch
Thượng Đức từ đầu đến cuối, nhưng ở phía bên kia chiến hào. Tôi rất
ngạc nhiên khi thấy bài viết của ông rất chi tiết về chiến dịch này.
Trong đó ông chưa nêu được vai trò và thành tích của Không Quân
VNCH. Họ đã gây không ít tổn thất, nếu không nói là nặng nề, cho
phía chúng tôi trong khi tấn công căn cứ Thường Đức.
Một chi tiết không chính xác là Không Quân
diệt được xe tăng của chúng tôi là không đúng, vì bên này chẳng có
một chiếc xe tăng nào hết. Biệt Động Quân (Tiểu Đoàn 79) rất đáng
khen là họ chiến đấu rất gan lì và không đầu hàng sau 9 ngày chống
cự. Từ trận Dakpek, phía chúng tôi rút được kinh nghiệm dùng đại bác
bắn trực xạ nên các trận chiến đều được áp dụng lối này, rất có hiệu
quả như ông Dưỡng mô tả.
Tôi không đồng ý với ông Dưỡng là phía Bắc
quân luôn dùng chiến thuật biển người. Tấn công Thượng Đức trực tiếp
chỉ có Trung Đoàn 66 của Sư Đoàn 304. Một trung đoàn của Sư Đoàn 324
(đã hạ đồn Dakpek) không trực tiếp tấn công, chỉ dàn quân chờ đánh
tiếp viện. Sau khi lấy được Thường Đức, Trung Đoàn 66 thiệt hại 3/4
quân số và sau này là lược lượng chính tiếp cả 3 lữ đoàn Nhảy Dù.
Trong trận lấy lại ngọn 1062 ngày 29 tháng 10 năm 1974, đại đội của
tôi chỉ có 27 tay súng đã giành lại 1062.
Trận này, chúng tôi kéo 1 khẩu súng chống tăng
85 mm bắn trực xạ, súng 14.5 mm phòng không 4 nòng, hạ nòng yểm trợ
bộ binh. Khi chiếm được 1062, chỉ còn 5 người trong đó có tôi, đến
ngày 31 tháng 10 đại đội tôi chỉ còn 1 người trên đỉnh 1062.
Tôi đồng ý với ông (tác giả), tới thời điểm
này cả hai phía đã hết "sinh lực." Nếu như quân Nhảy Dù còn sức, tôi
nghĩ các ông có thể lấy lại Thường Đức. Phía bên này (Bắc Việt)
không biết là các ông cũng đã "hết sinh lực" như ông mô tả, mà nghĩ
là quân Dù phải rút đi để hỗ trợ cho Buôn Mê Thuột vừa bị thất thủ.
Mong chờ bài viết tiếp của ông, và cảm ơn.
Một cựu chiến-binh Bắc Việt tại mặt trận Thường Đức (Trung Đoàn 66/Sư Đoàn 304) |
Ngày 1 tháng 11/1974, Ðồi 1062 lại một lần nữa bị địch chiếm
giữ. Trong khi ở Bắc Hải Vân, áp lực địch rất nặng vì quân Nhảy Dù bị rút đi.
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng không chấp thuận đề nghị kéo quân Nhảy Dù về bảo vệ
Bắc Hải Vân. Ông ra lệnh cho Tướng Lê Quang Lưỡng (tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù) phải
lấy lại Ðồi 1062 với bất cứ giá nào. Cuộc phản công bắt đầu vào ngày 8 tháng
11/1974, và chỉ 3 ngày sau, các đơn vị Nhảy Dù đã chiếm lại đồi 1062.
Dẫu cho cuộc giằng co giữa hai bên còn kéo dài thêm vài tuần
nữa, lực lượng Nhảy Dù tiếp tục bung rộng vùng kiểm soát, cuộc chiến đấu đẫm máu
nhất từ ngày ký Hiệp Định Ngừng Bắn coi như chấm dứt. Sư Đoàn Nhảy Dù bị hy sinh
gần 500 chiến sĩ, và khoảng 2,000 người bị thương. Địch quân chết 2,000 và bị
thương 5,000 người (theo tài liệu của Colonel William E. LeGro trong Vietnam
from Cease-Fire to Capitulation).
Bảy tiểu đoàn Nhảy Dù đã lâm chiến suốt 3 tháng, và vào trung
tuần tháng 10/1974, sáu tiểu đoàn đã lần lược ngự trị ngọn đồi máu 1062 này.
Ðịch quân đã dòm ngó quân Nhảy Dù trên đỉnh 1235, nhưng Tướng Lê Quang Lưỡng
không đủ lực lượng để kiểm soát luôn dãy đồi cao này. Ðồng thời địch quân vì
tiêu hao quá nhiều nên cũng không dám trở lại tấn công đơn vị thiện chiến này
của Việt Nam Cộng Hòa.
Vào cuối năm 1974, chỉ còn Tiểu Ðoàn 1 và 7 Nhảy Dù ở lại giữ
vùng 1062 này. Họ đặt Bộ Chỉ Huy tại đỉnh Đông Lâm, khoảng 4 cây số phía Đông
1062. Mùa mưa đến, cả hai bên cần thời gian để chuẩn bị cho mùa khô kế tiếp.
DIỄN TIẾN CHI TIẾT
Cộng quân lần lượt tấn chiếm các xã, quận, và căn cứ quân sự
của ta ở Quảng Nam, Đà Nẵng, và Quảng Ngãi. Sự việc mất các đồn lũy xảy ra
thường xuyên. Câu nói thông thường lúc bấy giờ là "mất liên lạc. "Quận A mất
liên lạc," "đồn B mất liên lạc, v.v." Mất liên lạc cũng đồng nghĩa với "di tản
chiến thuật" hồi trận chiến mùa hè đỏ lửa năm 1972, và mọi người đều hiểu quân
ta đã rút lui và địch đã chiếm mất rồi. Ngay cả khu đồng bằng Quảng Đà, nơi có
bản doanh Quân Đoàn 1 và phi trường lớn Đà Nẵng cũng bị lay động, lâm nguy.
Quận lỵ Thường Đức bị "mất liên lạc," phi trường Đà Nẳng và
bản doanh Quân Đoàn 1 thường xuyên bị pháo kích. Các đơn vị địa phương hầu như
bị địch bao vây tấn công tràn ngập và mất liên lạc nhiều nơi. Áp lực địch nặng
nề đến nỗi dân Đại Lộc đã phải gồng gánh, bồng bế nhau chạy ra thị xã Đà Nẵng.
Ngay khi hay tin Thường Đức bị thất thủ, Trung Tướng Ngô
Quang Trưởng đã biết rõ ý đồ của địch. Ông cho rằng chúng định lợi dụng địa thế
hiểm trở chiến lược của vùng rừng núi trùng điệp xung quanh đồi 1062, bày binh
bố trận để cầm chân các đơn vị thiện chiến tổng trừ bị. Do đó Tướng Trưởng đã
cho lệnh di chuyển pháo binh nặng của Quân Đoàn 1, gồm các pháo đội đại bác 175
ly và 155 ly tới Đại Lộc, gần Thường Đức. Ðồng thời ông điều động 2 lữ đoàn Dù
(không đủ quân số) vào tăng cường nhằm thanh toán hai sư đoàn chính qui Cộng Sản
Bắc Việt. Đây là trận đánh đẫm máu lớn nhất giữa Việt Nam Cộng Hòa và Bắc Việt
kể từ khi Hiệp Định Ðình Chiến Ba Lê có hiệu quả vào ngày 27 tháng 1/1973.
Vào thời điểm 1973-74, biết mình không còn là lực lượng trừ
bị để phản ứng khi cần, Tướng Lê Quang Lưỡng đã tâm sự với các sĩ quan tham mưu,
"Lực lượng mình đang bị cầm chân dọc theo dãy Trường Sơn. Bây giờ nếu địch tấn
công và chọc thủng phòng tuyến, tràn theo hành lang sông An Lỗ vào đồng bằng Trị
Thiên. Anh em mình chắc chỉ còn đường ra biển."
Mối lo không có lực lượng trừ bị là một dằn vật thường trực
với vị tướng tư-lệnh trẻ tuổi này. Quả vậy, đấy chỉ là nói giả dụ tới việc địch
tấn công vào khu vực trách nhiệm của Sư Đoàn Nhảy Dù thôi. Nếu địch thọc sâu cắt
đứt đèo Hải Vân làm cho Nam, Bắc Hải Vân không còn tiếp ứng được cho nhau nữa
thì sẽ ra sao? Chắc ước tính của Quân Đoàn 1 là cuộc tấn công sắp tới của địch
sẽ theo trục Bắc-Nam giống như cuộc tấn công vào mùa hè năm 1972. Do đó, Quân
Ðoàn 1 đã dồn nỗ lực đào hầm, đặt chướng ngại vật chống chiến xa ở bờ Nam sông
Mỹ Chánh, chuẩn bị phòng thủ rất chu đáo.
Riêng tướng Lê Quan Lưỡng và bộ tham mưu Sư Đoàn Nhảy Dù
không đồng ý như vậỵ Cuộc tấn công lần này của địch chắc không tốn kém, hao tổn
sức lực như năm 1972, mà chúng chỉ cần chọc mũi dùi thật lẹ và mạnh từ Tây sang
Đông, cắt đứt khu vực Quân Đoàn 1 làm đôi ở đèo Hải Vân thì sẽ dụ lực lượng trừ
bị tới giải tỏa. Như vậy coi như một chiến thắng đáng kể của họ rồi.
Với mối lo âu ấy, làm sao có được trong tay lực lượng trừ bị
khá mạnh để có thể phản ứng ngay khi tình hình đòi hỏi? Và sau đây là kế hoạch
để có quân trừ bị của Sư Đoàn Nhảy Dù:
Thiếu Úy Nguyễn Anh Sơn trong Nghi Lễ Phủ Quốc Kỳ VNCH cho
Thiếu Úy Trần Việt Huệ / Whittier Nam California
Bắt đầu đợt tấn công mới. Pháo binh CS, đã hạ nòng bắn tập trung diệt từng lô cốt một của căn cứ. Không Quân VNCH đã gởi phi pháo đến yểm trợ và trọng pháo tác xạ dữ dội vào các vị trí quân CS. Nhưng rút được kinh nghiệm của đợt tấn công trước, đội hình bộ binh cộng quân áp sát mục tiêu hơn và có công sự chu đáo nên tránh được thương vong nặng như lần trước. Đạn pháo bắn thẳng phá tung những lô cốt còn lại, sau đó cối 160 mm nện chính xác vào khu trung tâm rồi pháo chuyển lần hướng dẩn cho bộ đội tiến tới.
Mặt Trận Thượng Đức
(Từ ngày 18/8 đến ngày 8/11/1974 )
MĐ Võ Trung Tín và Nguyễn Hữu Viên
Sau khi Hiệp Định Paris được ký kết tại Paris vào
cuối tháng 1/1973, tình hình chiến cuộc Việt Nam tạm lắng dịu. Hai
sư đoàn Tổng trừ bị (Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến) vẫn còn bị lưu
giữ tại Quân Khu 1. Lấy Quốc Lộ 1 làm ranh giới, Sư Đoàn Nhảy Dù
trấn giữ phía Tây, dọc theo hành lang dãy Trường Sơn, và trách nhiệm
luôn phần bảo vệ an ninh Quốc Lộ 1, từ cây số 17 ra tới bờ sông
Thạch Hãn (tỉnh Quảng Trị). Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) trấn
giữ phía Đông từ Quốc Lộ 1 ra đến bờ biển, đến tận Cổ Thành Quảng
Trị ở phía Bắc. Các đơn vị thuộc Sư Đoàn Nhảy Dù chiếm những cao địa
tới tận chân dãy Trường Sơn, các căn cứ Anne (Động Ông Đô), Barbara
(đã giành lại được trong cuộc tổng phản công tái chiếm Quảng Trị).
Đây là 2 căn cứ chiến lược chế ngự toàn vùng hành quân.
Từ An Lổ,cây số 17 (căn cứ Hiệp Khánh, Bộ Tư Lệnh
Sư Ðoàn Nhảy Dù) về phía Nam là trách nhiệm của các đơn vị cơ hữu
thuộc Quân Ðoàn 1. Sư Đoàn 1 Bộ Binh trấn đóng ở phía Bắc đèo Hải
Vân. Phía Nam là trách nhiệm của Sư Đoàn 3 và Sư Ðoàn 2 Bộ Binh. Cả
hai khu vực Bắc và Nam đèo Hải Vân đều có các đơn vị Biệt Động Quân,
Địa Phương Quân, và Nghĩa Quân trấn giữ.
Đối đầu với Sư Đoàn Nhảy Dù là Sư Ðoàn 325 Trị
Thiên của Bắc Việt. Tuy danh xưng là Sư Ðoàn Trị Thiên, nhưng thực
ra bộ đội của sư đoàn này rất trẻ và nói toàn giọng Bắc. Tình hình
tổng quát tại Quân Khu 1 sau ngày ký hiệp định tương đối yên tĩnh.
Vào những tháng cuối năm 1974, sau khi trao đổi
tù binh với Hoa Kỳ xong xuôi, Bắc Việt không ngần ngại bắt đầu vi
phạm Hiệp Định Ba Lê để thực hiện ý đồ xâm lăng thôn tính miền Nam
bằng võ lực.
Qua các cuộc trắc nghiệm xem phản ứng của Hoa Kỳ
bằng cách mở cuộc tấn công vào tỉnh Phước Long cuối năm 1974, và một
số thị trấn khác thuộc Quân Khu 3. Thấy Hoa Kỳ không có phản ứng,
Cộng Sản Bắc Việt bắt đầu tung các đơn vị chủ lực vào cuộc xâm lược
Miền Nam Việt Nam. Bộ đội, pháo binh, cơ giới của họ ngang nhiên di
chuyển hàng hàng lớp lớp giữa ban ngày, không cần ngụy trang ẩn nấp
như xưa.
Cộng Sản Bắc Việt mở mặt trận lớn đầu tiên tại
Vùng 1 Chiến Thuật với ý đồ cầm chân các đơn vị tổng trừ bị của
QL-VNCH đồng thời ào ạt di chuyễn bộ đội trên đường mòn HCM vào các
quân khu 2 và 3. Hai sư đoàn 304 và 324 Bắc Việt, cùng các trung
đoàn pháo, chiến xa bất thần đánh chiếm quận Thường Đức thuộc tỉnh
Quảng Nam. Là một điểm chiến lược vì địa thế núi rừng hiểm trở dễ
thủ khó công.
Thường Đức nằm ở phía Tây tỉnh Quảng Nam trong
thung lủng Hà Tân, một khu vực nghèo nàn khô cằn sỏi đá ở phía Tây
Nam Đà Nẵng khoảng 50 cây số, và phía Tây là vùng rừng núi trùng
điệp chạy dài tới biên giới Lào. Đây là tiền đồn chiến lược bảo vệ
căn cứ quân sự và phi trường Đà Nẵng, một trong những căn cứ lớn
nhất của VNCH.
Địa hình Thượng Đức rất hiểm yếu, ba bề là núi
cao, có nhiều dốc dựng đứng, phía Đông bằng phẳng, là nơi hợp lưu
của hai con sông Côn và sông Vu Gia nước sâu, chạy dài từ Tây sang
Đông.
Trước kia Lực Lượng Ðặc Biệt (LLĐB) Hoa Kỳ đã xây
dựng và để lại một căn cứ phòng thủ chiến lược với hệ thống giao
thông hào liên hoàn trong căn cứ cùng với 35 lô cốt nửa chìm nửa
nổi, mỗi lô cốt rộng bốn mét, xây dựng bằng xi măng cốt thép bao bọc
hai lớp bao cát đặt ngang ở giữa, nhiều công sự có nắp và một hệ
thống nhà hầm và hầm ngầm. Khu thông tin, chỉ huy pháo binh, bệnh
viện, kho đều nằm sâu trong lòng đất. Trong khu vực nhà ngầm được
chia thành nhiều phòng. Lực lượng VNCH ở Thượng Đức có Tiểu Đoàn 79
Biệt Động Quân Biên Phòng, hai đại đội Địa Phương Quân, một đại đội
Cảnh Sát Dã Chiến, một trung đội Viễn Thám và 16 trung đội Nghĩa
Quân, tất cả đặt dưới sự chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Quốc Hùng, quận
trưởng.
Về mặt chiến lược Thường Đức còn là một vị trí
quan trọng xuất phát các cuộc hành quân trinh sát, khống chế con
đường tiếp liệu Trường Sơn Đông mà CSBV vừa mới khai dựng sau ngày
ký hiệp định 27/1/1973. Từ phía Bắc quân dụng và chiến cụ theo đường
mòn HCM đưa từ A-Lưới đến A-Shau qua Trào đến Bến Giàng nằm trên LTL
4 cách Thường Đức không xa. Tại đây quân CSBV có những kho lẳm tồn
trử quân dụng tiếp tế cho mặt trận Quân Khu Năm.
Về chính trị, với việc chiếm đóng Thường Đức, Hà
Nội có thể đánh giá được phản ứng của Hoa Kỳ và khả năng tăng viện
viện trợ quân sự cho Sàigòn. Về quân sự, Hà Nội có thể đánh giá khả
năng phản kích, cơ động và hỏa lực yểm trợ của chủ lực VNCH ở Quân
Khu 1, đặc biệt là lực lượng tổng trừ bị cơ động chiến lược (Nhảy
Dù).
Đối với Việt Nam Cộng Hòa, trận chiến Thượng Đức
đánh dấu việc vi phạm ngưng bắn của CSBV đã đến một mức độ nghiêm
trọng mới. Thường Đức trở thành quận lỵ đầu tiên của VNCH rơi vào
tay cộng sản sau ngày ngưng bắn. Đại Lộc và Đà Nẵng sẽ bị đe dọa
nghiêm trọng từ hướng Tây chỉ cách thung lũng sông Vu Gia.
Lực lượng địch tham chiến gồm có:
- SĐ324B gồm các Trung Đoàn 29, Trung Đoàn 6 & Trung Đoàn 803 di chuyển từ phía Tây tỉnh Quảng Trị xuống tỉnh Quảng Nam.
- SĐ304 Điện Biên, Tư lệnh là Trương Công Phê, Chính ủy là Trần Bình chỉ huy trực tiếp trận chiến. gồm 3 Trung Đoàn 66, 24 & 36 vừa tham gia trận đánh chiếm căn cứ Dak Pek ở phía Bắc tỉnh Kontum vào giữa tháng Năm đã bí mật di chuyển vào khu vực Thượng Đức.
- Trung Đoàn 31 thuộc SĐ2 CSBV tăng viện vào lúc cuối trận chiến.
-
2 Tiểu Đoàn bộ đội địa phương Quảng Đà.
-
Một Trung đoàn Pháo và Trung đoàn Chiến Xa.
Lực lượng địch quân tham gia tác chiến chủ yếu ở
Thường Đức là Sư Đoàn 304 với Trung Đoàn 66 được tăng cường Trung
Đoàn 29 (còn gọi là Trung Đoàn 3) /Sư Đoàn 324, Tiểu Đoàn 1/Lữ Đoàn
219 Công Binh, một đại đội tên lửa A72 (SA-7) và một đại đội tên lửa
B72 (AT-3), tất cả từ Quân Đoàn 2 cùng hai tiểu đoàn bộ đội địa
phương Quảng Đà. Các đơn vị của Quân Đoàn 2 đã được cơ giới trên con
đường chiến lược mới mở Đông Trường Sơn từ thung lũng Ba Lòng (Quảng
Trị) xuống. Riêng Trung Đoàn 3/ Sư Đoàn 324 vừa mới được cơ giới từ
thung lũng A Shau (Thừa Thiên) xuống tham gia đánh trận Dak Pek, sau
đó đã cơ động trở lại Quảng Nam đễ tham gia chiến dịch Thường Đức.
SA-7 và AT-3 đều được gọi là "tên lửa" (hỏa
tiển), nhưng công dụng khác nhau. SA-7 là hỏa tiển phòng không,
chống máy bay hoặc trực thăng, nhỏ gọn, dài khoảng 1.47 mét với
đường kính 70mm nằm trong một ống phóng ngắn có thể bắn từ trên vai.
AT-3 được chế tạo để chống thiết giáp (xe tăng, thiết vận xa) hoặc
bắn vào các công sự chiến đấu kiên-cố.
Trận Thường Đức do cán bộ Sư Đoàn 304CSBV trực
tiếp chỉ huy. Trong cuộc họp chuẩn bị giữa Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 304
với bộ chỉ huy Quân Khu 5 CSBV, đã có việc trao đổi kinh nghiệm sử
dụng pháo bắn thẳng có hiệu lực cao ở Nông Sơn. Tư lịnh Sư Đoàn 304
CS khẳng định sẽ tiêu diệt Thường Đức với hỏa lực hùng hậu của BộTư
Lệnh B5 yểm trợ gồm cấp số trang bị pháo 85 ly và 105 ly gấp đôi của
Sư Đoàn 2 CSBV lại có thêm súng cối 160 ly có sức công phá lớn, yểm
trợ đắc lực cho bộ binh xung phong.
Quân Đoàn 2 CS tổ chức một bộ phận tiền phương đi
cùng với Sư Đoàn 304 do Ðại Tá VC Hoàng Đan, phó tư lệnh quân đoàn
phụ trách.
Với nhiệm vụ tấn công chi khu quận lỵ Thường Đức,
thử thách quan trọng đối với Sư Đoàn 304 là việc chuyển vận đưa vũ
khí đạn dược vào trận chiến. Hai tổ trinh sát từ hai hướng hoạt động
gởi về báo cáo các kế-hoạch mở đường. Sau khi cân nhắc, cán bộ chỉ
huy Quân Đoàn 2 CSBV và Sư Đoàn 304 quyết định mở đường từ Trào vào
bến Hiên. Con đường này Cộng Sản Bắc Việt phải làm mới 45km, còn
21km dựa vào con đường VNCH làm dở dang đã bỏ từ lâu, sửa lại là xe
pháo đi được, việc bảo đảm bí mật đưa lực lượng vào chiến dịch cũng
tốt hơn. Ngoài việc ghép thuyền chở pháo, và các loại vũ khí cộng
quân còn đóng nhiều bè chuối, bè nứa để vận chuyển đạn và gạo vào
chiến dịch
Đoạn đường từ bến Hiên vào Thượng Đức dài 17km,
phía VNCH thường đưa thám báo ra phục kích, cộng quân chưa thể sửa
ngay được. Giai đoạn đầu, cộng quân phải dùng thuyền, bè chở pháo
đạn xuôi sông Côn rồi dùng sức người đưa pháo lên chiếm lĩnh trận
địa. Quân Đoàn 2 CSBV và Sư Đoàn 304 hạ quyết tâm đến ngày 20-7 phải
làm xong đường để đưa các lực lượng chính yếu vào đánh chiếm Thường
Đức.
Sau hơn một tháng vật lộn với con đường, đêm 17
tháng 7/1974, các xe pháo của cộng quân đã bí mật kéo vào tập trung
ở thôn Hiên. Các đại pháo 122 mm của Sư Đoàn 304 được bố trí trong
các làng bản không có người ở, vì dân đã bỏ đi từ lâu, nay biến
thành rừng. Cối 160 mm vào tới vị trí an toàn cách căn cứ Thượng Đức
3 km. Bộ đội và dân công lại đưa pháo 85 mm vượt qua một bãi sình
lầy lên điểm cao 118 để bắn trực tiếp vào Thượng Đức.
Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 304 đặt tại phía Đông Nam núi
Hà Sống, tại đây có thể quan sát rõ bộ binh xung phong lên Thượng
Đức. Sư Đoàn 304 chia thành ba mũi tiến công vào Thượng Đức: Trung
Đoàn 66 với Tiểu Đoàn 7,8 và 9 tấn công vào các vị trí VNCH ở trung
tâm chi khu quận lỵ , bộ đội địa phương, dân quân du kích tấn công
vào các thôn xung quanh quận lỵ, Trung Đoàn 29 của Sư Đoàn 324 chiếm
lỉnh các cao điểm ngăn chận viện binh ở vòng ngoài dọc theo phía Bắc
LTL 4.
Lực lượng bạn:
Lực lượng bạn:
-
Tiểu Đoàn 79 Biệt Động Quân Biên Phòng.
- Hai Đại Đội Địa Phương Quân.
- Một Đại Đội Cảnh Sát Dã Chiến.
- Một Trung Đội Viễn Thám.
- 16 Trung Đội Nghĩa Quân.
-
LĐ1 ND do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh làm Lữ
Đoàn Trưởng gồm 3 Tiểu Ðoàn 1,8,9 ND và TÐ1PBND
* Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, Thiếu Tá Ngô Tùng Châu làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù , Thiếu Tá Nguyễn Quang Vân làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù, Thiếu Tá Nguyển Văn Nhỏ làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Ðoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù , Thiếu Tá Nguyễn Văn Nghi làm Tiểu Đoàn Trưởng. -
LĐ3ND do Trung Tá Lê Văn Phát làm Lữ Đoàn
Trưởng gồm 3 Tiểu Ðoàn 2,3,6 ND và TÐ3PBND
* Tiểu Ðoàn 2 Nhảy Dù, Thiếu Tá Trần Công Hạnh làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù, Thiếu Tá Võ Thanh Đồng làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù, Thiếu Tá Nguyển Hửu Thành làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Ðoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù Thiếu Tá Nguyển Văn Thông làm Tiểu Đoàn Trưởng
Diển Tiến:
Khởi sự ngày 29/7/1974 Trung đoàn 29/324CSBV bắn
hoả tiển vào phi trường Đà Nẳng,cùng lúc pháo kích vào quận lỵ
Thường Đức đễ triệt hạ các công sự phòng thủ và tấn công các vị trí
tiền đồn do các đơn vị Nghĩa Quân và ĐPQ trấn giữ. Kho đạn của quận
lỵ bị bốc cháy, Chi Khu Thượng Đức mất liên lạc với ba vị trí tiền
đồn của Nghĩa Quân, Điạ Phương Quân và hai vị trí tiền đồn của Biệt
Ðộng Quân nhưng pháo binh từ Đồi 52 gần Đại Lộc yểm trợ hữu hiệu,
gây nhiều thiệt hại cho quân Cộng Sản.
Trung Đoàn 66 CSBV dùng bộc phá mở hàng rào ở
hướng chính, Tiểu Đoàn 7 CSBV bị một Trung Đội ĐPQ chận đứng với một
khẩu đại liên 50 (đại liên 12.7 mm) ở Trúc Hà. Cộng quân dùng pháo
85 ly bắn trực xạ diệt được khẩu đại liên 50 của trung đội ĐPQ, Tiểu
Đoàn 7 CSBV tiếp tục đưa lực lượng vào đột phá nhưng cũng không
thành công.
Hướng Tiểu Đoàn 9 CSBV, mặc dù chiến đấu rất dữ
dội, nhưng mở đến hàng rào thứ tư thì bị lính BĐQ đánh trả mạnh mẽ.
Cộng quân bị thương vong quá nhiều phải dừng lại. Phía VNCH phản ứng
rất nhanh, Không Quân VNCH từ Đà Nẵng bay lên đã ném bom chính xác
vào ngay hàng rào. Khi Bắc quân bắn nát một lô cốt và chuyển sang lô
cốt khác, TĐ79 BĐQ lập tức đưa quân bám lấy lô cốt sập, bắn chận
không cho quân Bắc Việt tiến lên.
Sáng sớm hôm sau, ngày 30/7/1974 CSBV pháo dử dội
và tấn công vào chi khu Thượng Đức, Chi Khu Trưởng bị thương nặng
nhưng quân ta vẫn giử vửng được phòng tuyến, các binh sĩ VNCH tiếp
tục anh dũng đánh bật các đợt tấn công của Bắc quân. Phi cơ quan sát
của VNCH phát hiện một đoàn quân xa và pháo binh của VC di chuyển
trên liên Tỉnh Lộ số 4 phiá Tây Thượng Đức, Không quân VNCH từ Đà
Nẵng đã được gọi đến oanh kich tiêu diệt 3 chiến xa của địch.
Đây là trận đánh hiệp đồng binh chủng cường tập
rất mạnh của Trung Đoàn 66 CSBV và sau nhiều đợt pháo bắn yểm trợ
cho nhiều đợt bộ binh tấn công nhưng vẫn không thành công trước sự
chống trả vô cùng anh dũng, quyết liệt của những người lính VNCH
được Không Quân từ Đà Nẳng lên yểm trợ đắc lực.
Sau hai ngày đêm tấn công quyết liệt, Trung Đoàn
66 vẫn không “mở cửa” được trong khi bị thiệt hại nặng nề, phài dừng
lại cũng cố đội hình. Đêm 30/07 Nguyễn Chánh, Tư lịnh phó Quân Khu
5, phải ra mặt trận để chấn chỉnh lại đội ngũ và quyết định đưa pháo
vào gần để bắn trực xạ.
Ngày 31/7/1974 sau những đợt pháo tập khũng
khiếp, Trung Đoàn 66 CSBV liên tục đưa lực lượng tiến sát vào vòng
đai phòng thủ nhưng Tiểu Đoàn 79 BĐQ cùng ĐPQ/NQ Thượng Đức chống
trả rất dữ dội khiến cộng quân bị thương vong rất nhiều mà hàng rào
vào quận lỵ vẫn chưa mở được. Tiểu Đoàn Trưởng 79 BĐQ yêu cầu dội
pháo ngay lên hầm chỉ huy của ông. Các công sự phòng thủ cũng như hệ
thống giao thông hào đều sụp đổ dưới những đợt pháo kích liên tục
của quân CSBV nhưng lính mũ nâu vẫn giữ được căn cứ và sau cùng Cộng
quân cũng chiếm được bải đáp trực thăng phiá ngoài đồng thời bố trí
quân trên các cao điểm để chế ngự Tỉnh lộ 4 ở phía Đông Thượng Đức
chờ quân đội VNCH phản công theo đúng chiến thuật "đánh điểm diệt
viện." Trước sự thiệt hại nặng nề của Trung Đoàn 66, Sư Đoàn 304
phải ra lệnh cho Trung đoàn ngừng tiến công và chuyển sang phòng ngự
giữ bàn đạp đã chiếm được.
Trong ngày nầy Quân cộng sản cũng pháo vào các vị
trí của Trung Đoàn 2 BB và Pháo Binh đóng tại Đại Lộc. Sau khi tổn
thất nặng ở trận Đức Dục vài tuần trước Trung Đoàn 2 BB đang được
tái bổ sung và huấn luyện ở phía tây Đại Lộc, một pháo đội 175 ly
được di chuyển ra quận Hiếu Đức để yểm trợ cho Thượng Đức. Sau đợt
tấn công đầu tiên của quân CS, Trung Tá Quận Trưởng Nguyễn Quốc Hùng
tuy bị thương gãy chân nhưng vẫn báo cáo về Đà Nẵng là giữ được
Thượng Đức và yêu cầu tăng viện. Bộ Chỉ Huy Chi Khu Thượng Đức ráo
riết huy động binh lính cũng cố các công sự phòng thủ. Phát hiện
được lực lượng đang bao vây Thượng Đức là bộ đội chủ lực CSBV vừa di
chuyển từ Quảng Trị vào, Không Quân VNCH đã được gọi tới oanh kích
dữ dội vào đội hình vây lấn của địch quân.
Tại chi khu Thượng Đức, tổn thất của Biệt Ðộng
Quân và các đơn vị trú phòng ngày càng gia tăng trong khi việc tải
thương không thực hiện được do hỏa lực phòng không ác liệt của cộng
quân. Tướng Trưởng điều động một Chi đoàn chiến xa M-48 từ Tân Mỹ
phía Bắc Hải Vân vào Đà Nẵng làm trừ bị cho Tướng Hinh khi tình hình
trở nên nghiêm trọng.
Ngày 1/8/1974 để giải toả áp lực địch, Tướng
Nguyễn Duy Hinh, Tư Lịnh Sư Đoàn 3 BB đã thành lập một Chiến đoàn
đặc nhiệm gồm Trung Đoàn 2BB và Thiết Đoàn 11 Kỵ Binh từ Đại Lộc đi
dọc theo Tỉnh lộ 4 tiến về Thượng Đức.
Ngày 3/8/1974, Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 2BB
bắt được một tù binh Bắc Việt ở phía Đông Thượng Đức, theo cung từ
cuả tù binh nầy cho biết Trung đoàn 29 CSBV đã chiếm giữ các cao
điểm 1235 và 1062 để chế ngự tỉnh lộ 4 giữa Thượng Đức và Đồi 52 ở
phía Tây Đại Lộc, con đường tiếp liệu và tiếp viện cho Thượng Đức
trong khi Trung Đoàn 66 của Sư Đoàn 304 được tăng cường lực lượng
chuẩn bị dứt điểm Thượng Đức.
Bắt đầu đợt tấn công mới. Pháo binh CS, đã hạ nòng bắn tập trung diệt từng lô cốt một của căn cứ. Không Quân VNCH đã gởi phi pháo đến yểm trợ và trọng pháo tác xạ dữ dội vào các vị trí quân CS. Nhưng rút được kinh nghiệm của đợt tấn công trước, đội hình bộ binh cộng quân áp sát mục tiêu hơn và có công sự chu đáo nên tránh được thương vong nặng như lần trước. Đạn pháo bắn thẳng phá tung những lô cốt còn lại, sau đó cối 160 mm nện chính xác vào khu trung tâm rồi pháo chuyển lần hướng dẩn cho bộ đội tiến tới.
Mặc dầu được tăng cường Tiểu Đoàn 1/57, Chiến
đoàn của Trung Đoàn 2 tiến rất chậm trước sự kháng cự của Trung Đoàn
29 CSBV và hỏa lực pháo binh hùng hậu của Cộng quân dọc theo các cao
điểm 1235 và 1062 cạnh LTL4. Trong khi tại Thường Đức, tình hình trở
nên nguy kịch khi lính Biệt Ðộng Quân sắp cạn kiệt đạn dược cũng như
lương thực. Không Quân VNCH cố gắng thả dù tiếp tế khẩn cấp vào ngày
5 tháng 8 nhưng do hỏa lực phòng không ác liệt của Bắc Việt, tám
kiện hàng tiếp tế đều rơi ngoài chu vi phòng thủ. Một oanh tạc cơ
A-37 bị bắn rớt khi định tiêu diệt các kiện hàng tiếp tế không may
rơi vào khu vực do quân CSBV kiểm soát.
Lo ngại về mối đe dọa nguy hiểm lớn cho Đà Nẵng
từ hướng Tây của Đại Lộc, Tướng Trưởng khẩn cầu trực tiếp với Đại
Tướng Cao Văn Viên cho Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù từ Sàigòn ra tăng viện đồng
thời ra lệnh cho Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù đang phòng thủ phía tây Huế chuẩn
bị di chuyển vào Quảng Nam, nhưng các hoạt động này đã không còn kịp
đễ cứu vãn tình thế cho Thượng Đức.
Mặc dầu liên tục pháo vào Thường Đức từ ngày 29
tháng 7, cường độ pháo trong đêm 6 tháng 8 gia tăng mạnh với trên
1,200 đạn pháo. Ở hướng chính của căn cứ, Cộng quân dùng bộc phá
liên tục để mở ngỏ, nhưng binh sĩ VNCH trong hầm ngầm chui ra các lô
cốt đã bị sập, bắn trả quyết liệt. Đến 7 giờ sáng ngày 6 tháng
8/1974, Địch quân vẫn chưa vào được quận lỵ.
Suốt một ngày và đêm 6 tháng 8/1974 chiến đấu
liên tục, Tiểu Đoàn 9 CSBV đã mở được cửa đột phá và đánh chiếm được
một số lô cốt tuyến chiến hào thứ nhất. Nhưng khi phát triển vào
trung tâm, các mũi tiến công của Cộng quân bị khựng lại trước hệ
thống hỏa lực dày đặc của Binh Sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Tiểu Đoàn 79
BĐQ cùng lính Ðịa Phương Quân/Nghĩa Quân ở Thượng Đức quyết không
đầu hàng nên đã chiến đấu vô cùng quyết liệt, đánh trả các cuộc xung
phong của bộ đội CSBV đến người lính cuối cùng và viên đạn cuối
cùng.
Trên trời, máy bay A-37 của Không Quân VNCH liên
tục quần đảo bắn phá và bổ nhào trúc bom đánh ngay vào khu vực hàng
rào căn cứ, chi viện cho quân đồn trú ở Thượng Đức giữ vững khu vực
còn lại. Những người lính mũ nâu anh hùng của Tiểu Đoàn 79 BĐQ tiếp
tục đẩy lui một đợt tấn công nữa vào đêm này.
Đến 1 giờ ngày 7-8, cộng quân chuyển hướng tiến công của Tiểu Đoàn 9 thành hướng chủ yếu. Đến 5 giờ 30 phút ngày 7 tháng 8 năm1974, sau khi củng cố lực lượng và bố trí lại đội hình, Trung Đoàn 66 mở đợt tấn công cuối cùng đánh chiếm quận lỵ Thượng Đức. Hỏa lực của pháo binh CS bắn chi viện cho Tiểu Đoàn 8 tiếp tục mở cửa. Bộc phá nổ cuốn theo lớp hàng rào cuối cùng. Những người lính BĐQ, ĐPQ và NQ còn sống sót rút vào lô cốt ngầm bắn ra như điên như dại, chống cự quyết liệt.
Đến 1 giờ ngày 7-8, cộng quân chuyển hướng tiến công của Tiểu Đoàn 9 thành hướng chủ yếu. Đến 5 giờ 30 phút ngày 7 tháng 8 năm1974, sau khi củng cố lực lượng và bố trí lại đội hình, Trung Đoàn 66 mở đợt tấn công cuối cùng đánh chiếm quận lỵ Thượng Đức. Hỏa lực của pháo binh CS bắn chi viện cho Tiểu Đoàn 8 tiếp tục mở cửa. Bộc phá nổ cuốn theo lớp hàng rào cuối cùng. Những người lính BĐQ, ĐPQ và NQ còn sống sót rút vào lô cốt ngầm bắn ra như điên như dại, chống cự quyết liệt.
Tiểu Đoàn 9 đã chiếm được khu Địa Phương Quân và
phát triển xuống khu cảnh sát, quận lỵ. Tiểu Đoàn 7 từ hướng tây bắc
đã sang hướng Tiểu Đoàn 9, đột phá vào khu Biệt Ðộng Quân. Lúc 8 giờ
30 phút ngày 7 tháng 8/1974, Sư Đoàn 304 đã tràn ngập cứ điểm Thượng
Đức. Tiểu đoàn trưởng BĐQ báo cáo mở đường máu rút lui trước khi
liên lạc bị mất vào trưa ngày 7 tháng 8.
Thượng Đức trở thành quận lỵ đầu tiên của Việt
Nam Cộng Hòa rơi vào tay quân Bắc Việt sau ngày ngừng bắn và một cơ
hội cho Hà Nội đánh giá phản ứng và khả năng yểm trợ cho VNCH của
Hoa Kỳ khi chiến sự bắt đầu leo thang.
Do chủ quan về khả năng chiến đấu của chủ lực cơ
động cùng pháo binh hùng hậu yểm trợ, Trung Đoàn 66 của Sư Đoàn 304
đã phải trả một giá khá đắt, thiệt hại nặng nề với 75% quân số
thương vong khi bị Tiểu Đoàn 79 BĐQ cùng các người lính ĐPQ/NQ và
CSDC của chi khu Thượng Đức được sự yểm trợ tích cực và hữu hiệu của
Không Quân VNCH từ phi trường Đà Nẳng đã chận đứng và đánh bật hàng
loạt các đợt tấn công kéo dài suốt 9 ngày đêm. Các người lính VNCH
đã không chịu đầu hàng mà chiến đấu cho đến viên đạn cuối cùng, cho
đến giọt máu cuối cùng. Nhưng sự hy sinh anh dũng này đã đi vào quên
lãng do địa thế hẻo lánh, không được nhiều người biết đến.
Sư Đoàn Nhảy Dù tham chiến:
Sư Đoàn Nhảy Dù tham chiến:
Ngày 8/8/1974, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù cùng 3 Tiểu Đoàn
trực thuộc 1, 8, & 9ND được khẩn cấp không vận đến vùng hành quân
Đại Lộc bằng phi cơ C130, một ngày sau khi Thường Đức thất thủ,
trong khi các thiết bị nặng như đại bác 105-ly và xe cộ được đưa ra
bằng tàu của Hải Quân. Sau khi nghỉ đêm tại Quận Hiếu Đức, sáng hôm
sau Lữ Đoàn I ND di chuyển bằng đoàn xe GMC hướng về quận Đại Lộc,
qua Ái Nghĩa, cầu Chìm. Đoàn xe dừng tại đây, mọi người ba lô súng
đạn gọn ghẽ, triển khai đội hình từ từ tiến vào vùng hành quân.
Ngày 11/8/1974 Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù cùng 3 tiểu đoàn
2, 3 & 6 được lệnh di chuyển bằng phi cơ từ phi trường Phú Bài xuống
phi trường Đà Nẵng trách nhiệm án ngử ở quận Hiếu Ðức sau khi bàn
giao khu vực trách cho Liên Ðoàn 15 Biệt Động Quân / Quân Khu 1.
Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù và Chuẩn Tướng Lê
Quang Lưỡng (Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù) cũng di chuyển đến Đà Nẵng.
bản doanh tại phi trường Non Nước ở phía Nam Đà Nẵng.
Trên vùng đồi núi chập chùng nằm phía bắc thung
lũng sông Vu Gia, Liên Tỉnh Lộ 4 nối liền Thường Đức với khu vực
đồng bằng duyên hải, 2 bên trái phải là 2 dãy núi cao chót vót trùng
điệp chạy chụm lại, 2 dãy núi gặp nhau tại một khe núi rất hẹp, có
tên là Ba khe, với ngọn đồi 52 trọc đỏ ối nằm ngay yết hầu con đường
độc đạo chạy từ Đại Lộc vào Thường Đức, vào sâu nữa là vùng Bến
Giàng rồi Khâm Đức.
Dọc hai bên sườn đồi, địch quân như có ý đồ từ
lâu, hầm hố được dựng rất kiên cố. Họ cưa cột nhà của dân chúng đem
gác thành khung chữ A, tháo tôn trên mái nhà đặt lên mặt, rồi tấn
đất cát chặt lên trên. Từng chiếc hầm kiên cố, nếu một quả đạn 105
ly có nổ trên nắp hầm cũng chả ăn thua gì, địch vẫn ngồi bên dưới
ung dung kéo thuốc lào.
Địch đã xây dựng hệ thống phòng thủ này từ lâu
lắm rồi. Họ đã khống chế toàn vùng từ khuya, nhưng vẫn để cho con
đường độc đạo này thông thương qua lại, dân chúng vẫn ra vào, quân
ta vẫn đi lại lui tới tưởng như vô sự. Nhưng nếu thử tung một toán
trinh sát lấn sâu sang bên lộ thử xem, địch quân đang nằm trong đó.
Cho nên khi địch lật úp bàn tay thì toàn bộ lực lượng Sư đoàn 3BB và
Biệt Động Quân tan tác trong nháy mắt. Vị sĩ quan Đại đội trưởng
ĐĐ/BĐQ trấn thủ đồi 52 khi chạy thoát về gặp Nhảy Dù, chỉ còn có một
người lính mang máy PRC-25 đi theo, ông ta vẫn chưa kịp hoàn hồn.
Cách Liên Tỉnh Lộ 4 khoảng 6 km về phía Bắc, đồi
1235 nằm ở phía đông Thường Đức là đỉnh cao nhất, trong khi Đồi 1062
cách đó khoảng 2 km về phía Nam có vị trí chiến lược quan trọng có
thể quan sát khống chế toàn bộ khu vực Liên Tỉnh Lộ 4 và thung lũng
sông Vu Gia từ Thường Đức kéo dài cho đến Đại Lộc. Theo con đường
độc đạo ngoằn ngoèo, những toán quân của Sư Đoàn 3 Bộ Binh, của Biệt
Động Quân đang nhớn nhác di tản từ Thường Đức ra. Nương theo đoàn
binh lính là những dân lành, gồng gánh bồng bế nhau tìm đường thoát
hiểm. Những loạt đại bác 130 ly của địch từ núi sâu bắn rải theo
đoàn người dọc trên mặt lộ. Mỗi khi một cụm khói bốc lên, đoàn người
lại ngã xô xuống. Khi cụm khói tan đi, có dáng người loạng choạng
đứng lên lê lết bước, có dáng người vẫn nằm yên một chỗ phơi thây
trên mặt đường.
Trung Đoàn 29 CSBV đã đóng chốt trên những ngọn
đồi nằm sát Liên Tỉnh Lộ 4 và đã thiết lập một đài quan sát pháo
binh ở trên đỉnh 1062 để có thể pháo chính xác vào các vị trí của
Việt Nam Cộng Hòa trong khu vực Đại Lộc và kiểm soát tất cả mọi
chuyển động trên Tỉnh lộ 4.
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù được giao cho nhiệm vụ chiếm
lại đồi 1062 cùng các ngọn đồi lân cận tiếp giáp với Liên Tỉnh Lộ 4
trong khi Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù bảo vệ Đà Nẵng ở hướng Tây qua quận Hiếu
Đức. Các Tiểu Đoàn Nhảy Dù thay phiên nhổ từng chốt Cộng quân bám
chặt trong những hốc núi trong suốt một tháng trời, Lữ Đoàn 1 Nhảy
Dù tiến dần lên Đồi 1062.
Sau khi các cánh quân của Nhảy Dù đã vào tuyến xuất phát. Chuẩn Tướng Lê Quang Lưởng, Tư Lịnh SĐND cho các đơn vị tiến dọc theo đường đỉnh dãy núi Sơn Gà rồi trực chỉ Thường Đức. Nỗ lực chính là Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù. Trong khi đó Lữ đoàn 3 lục soát xung quanh thung lũng Đại Lộc, và làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng.
Giai đoạn I của cuộc hành quân:
Sau khi các cánh quân của Nhảy Dù đã vào tuyến xuất phát. Chuẩn Tướng Lê Quang Lưởng, Tư Lịnh SĐND cho các đơn vị tiến dọc theo đường đỉnh dãy núi Sơn Gà rồi trực chỉ Thường Đức. Nỗ lực chính là Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù. Trong khi đó Lữ đoàn 3 lục soát xung quanh thung lũng Đại Lộc, và làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng.
Giai đoạn I của cuộc hành quân:
Ngày 18/8/1974 Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù bắt đầu xung
trận, tuyến xuất phát khởi từ làng Hà Nha. Hà Nha là một dải đồng
bằng hẹp, bên trái là con đường độc đạo dẫn vào Thường Đức, bên phải
giáp với chân của rặng Sơn Ya ( còn gọi là Sơn Gà) cao ngất trời
xanh. Các đơn vị Nhảy Dù chia thành từng toán nhỏ đeo bám trên các
sườn núi để diệt các chốt Cộng Sản bằng lựu đạn, vừa vượt tuyến xuất
phát khoảng 1 cây số, thì chạm mạnh với đich quân, họ phải giành
giựt từ ngôi nhà, từng gốc cây trên con đường độc đạo dẫn vào quận
Thường Đức. Đoạn đường 5 cây số vô cùng gian nan hiểm trở, với nhiều
bẫy và pháo tập gài sẵn của địch. Đoàn quân Nhảy Dù súng hờm trên
tay, cẩn trọng trải rộng đội hình dấn bước vào lò lửa đang sôi sục
Đây quả thật là một thử thách, đo lường sự can đảm, kinh nghiệm và
kỹ thuật chiến đấu của các chiến sĩ Nhảy Dù trước khi họ thực sự
tham dự một trận đánh để đời quanh ngọn đồi đẫm máu 1062.
Về phía CSBV,Trung Đoàn 29 bị tổn thất quá nặng
phải lùi dần về sau nên Quân Khu 5 Cộng Sản phải điều động Trung
Đoàn 31 của Sư Đoàn 2 CSBV vào thay cho Trung Đoàn 66 đang giữ
Thường Đức để đơn vị này ra tăng cường cho Trung Đoàn 29 để làm chậm
lại bước tiến của những người lính Nhảy Dù. Cộng quân cũng đã đưa
Trung Đoàn 24 của Sư Đoàn 304 từ Quảng Trị vào đến chiến trường vào
đầu tháng 9/1974 để tăng cường cho mặt trận.
Sáng ngày 18/8, ba Tiểu Đoàn 1ND, 8ND và 9ND vượt
tuyến xuất phát, BTL/SĐ Nhảy Dù cũng đã tung các đơn vị Đại Đội 19,
21 và 27 Đa-Năng hoạt động để đánh lạc hướng tình báo địch.( 12 Đại
Đội Đa Năng là những Đại Đội thiện chiến ưu tú của SĐND, được tổ
chức ngoài bản cấp số. Quân số rút ra từ các đơn vị thống thuộc và
được huấn luyện khả năng tác chiến như một Đại Đội độc lập).
Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh, LĐT/LĐIND ra lệnh Tiểu
Đoàn 8 tiến theo Tỉnh Lộ 4, dọc bờ sông Vu-Già bảo vệ cánh trái trục
tiến quân tiến chiếm làng Hà Nha 1 và Hà Nha 2 ở phía Đông đồn Địa
Phương Quân cũ (trên cao điểm 52). Thiếu Tá Nguyễn Quang Vân, Tiểu
Đoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 8 chuyển lệnh cho Đ/U Phạm Văn Hiệu dàn Đại
Đội 83 xung phong thần tốc tấn công thẳng vào làng Hà Nha để giải
tỏa đồn Địa Phương Quân.
Khi Trung đội 1/83, Trung Đội Trưởng là Thiếu Úy
Hoàng Văn Tiến vào gần tới bờ làng thì quân CS Bắc Việt đồng loạt
khai hỏa. Các binh sĩ Dù bắn trả mãnh liệt. Trung Ðội 2 do Thiếu Úy
Nghiêm Sỉ Thành chỉ huy nhào vô cứu bồ vừa bắn vừa hô xung phong
vang rền làm địch hoảng hốt bỏ chạy hết. Nhờ đó tổ khinh binh của
Tiến nhảy vào chiếm được bờ làng, Đại Úy Hiệu bảo Thành ngưng tác
xạ, và Thiếu Úy Tiến dẫn toàn bộ Trung Đội vào mục tiêu và bung rộng
về phía Tây bờ làng.
Sau
40 phút giao tranh, Ðại Ðội 83 hoàn toàn làm chủ làng Hà Nha. Đ/U
Hiệu cho bố trí, binh sĩ canh gác cẩn mật, đào hầm hố củng cố vị trí
chiến đấu. Kết quả tịch thu vài súng cá nhân vì quân số địch cỡ một
trung đội, Cộng quân chỉ chống trả yếu vì thấy các binh sĩ Dù đánh
giặc hăng hái và bị nhiều mặt tấn công. Địch tức giận thua trận nên
dùng đại bác không giật từ các cao điểm bên kia bờ sông bắn trực xạ
vào làng Hà Nha. Xạ trường quan sát của địch thật là chính xác.
Trong khi binh sĩ Ðại Ðội 83 đào hầm hố, gài mìn
Claymore, mìn chiếu sáng, đặt lính gác giặc, Đ/U Phạm Văn Hiệu điều
chỉnh hỏa tập cận phòng với sĩ quan tiền sát, anh cận vệ dọn cơm cho
Hiệu ăn ở cái bàn nhỏ trước một ngôi nhà tranh. Hiệu thấy trời sáng
trăng, sợ địch ở đỉnh cao bên kia sông trông thấy, nên bảo dọn vào
nhà. Vừa ăn được nửa chén cơm thì nghe "đùng" một tiếng, cái bàn gỗ
trước nhà bị nguyên một trái SKZ-57 ly không giật. Hiệu giật mình!
Nếu sớm chừng 5 phút thì nguyên tổ chỉ huy của Ðại Ðội 83 đã bị tan
tành.
Sau đó địch khai hỏa tứ phía, sơn pháo trực xạ từ
các đỉnh núi bên kia sông, hỏa tiễn 122 ly, đại bác 130 ly liên tục
pháo kích vào làng Hà Nha. Dứt tiếng pháo thì cả tiểu đoàn địch đồng
loạt tấn công biển người vào Đại đội 83.
Nhờ đã chuẩn bị hố chiến đấu vững chắc, các binh
sĩ Nhảy Dù đã bắn trả mãnh liệt. Hiệu cho súng cối 60 ly bắn yểm trợ
sơ khởi, sĩ quan tiền sát gọi bắn các hỏa tập cận phòng. Thiếu Úy
Hoàng Văn Tiến và Thiếu Úy Nghiêm Sĩ Thành ra lệnh bấm mìn claymore,
hàng loạt địch ngã gục, súng đại liên M-60 và súng cá nhân AR-15 bắn
tới tấp. Hết lớp này tới lớp khác, quân CS Bắc Việt cứ nhào tới định
tràn ngập mục tiêu làng Hà Nha. Tiến và Thành thật can đảm, hai Sỉ
quan nầy ra ngay tuyến ngoài đốc thúc binh sĩ chống cự. Nhưng những
loạt đạn vô tình đã kết liễu đời hai người hùng trai trẻ của Ðại Ðội
83. Đây là hai sĩ quan đầu tiên của Tiểu đoàn 8 ND ngã xuống trên
mặt trận Thường Đức, mở đường cho năm sĩ quan Trung Đội Trưởng sau
đó theo chân Tiến ra đi không hẹn ngày về.
Đ/U Hiệu điều động Trung Ðội 3 của Thiếu Úy Lê
Mậu Sức qua trám lỗ hổng, nhưng Sức cũng bị thương nặng (phải di
tản). Chỉ còn Chuẩn úy Thạch Huôn và Đại Úy Hiệu đốc thúc các binh
sĩ Dù cố thủ. Cầm cự đến trời sáng thì địch rút lui để lại rất nhiều
vũ khí, xác địch và một số tù binh.
Trong lúc đó, Tiểu Ðoàn 1 do Thiếu Tá Ngô Tùng
Châu chỉ huy, đi cánh phải của Lữ Đoàn, tiến chiếm mục tiêu đầu là
cao điểm Đông Lâm, rồi theo đường đỉnh dãy Sơn Ya tiến về hướng Tây
tới 1062. Đây là một đồn bót cũ, địa thế xung quanh trống trải, dọc
dài xuống tận chân núi. Các đại đội tiến quân dưới cơn mưa pháo của
quân CS Bắc Việt, họ phải xung phong thần tốc bám sát và đánh cận
chiến để địch không sử dụng được các bãi pháo mà họ đã chuẩn bị sẵn.
Thiếu Tá Nguyễn Văn Quý (Tiểu Đoàn Phó) chỉ huy 2 Đại Đội thanh toán
các tổ cảm tử quân Việt Cộng đang đóng chốt trên những điểm cao,
những hốc đá cheo leo dọc theo dãy Sơn Gà. Một trở lực lớn là quá
nhiều mìn bẫy (thuộc loại "mìn hơi" làm bằng nhựa nhỏ cỡ hộp thịt ba
lát). Loại mìn này có thể hủy diệt 2 chân nếu dẫm phải. Tại đây Ðại
Ðội 11 bị tổn thất 2 chiến sĩ vì mìn hơi này.
Hôm sau, Lữ Đoàn phải tăng phái toán rà mìn của
Đại Đội 1 Công Binh Dù để mở đường. Mục tiêu Đông Lâm được chiếm
lĩnh dễ dàng vì không có lực lượng phòng ngự của địch. Tuy nhiên các
chiến sĩ Dù vẫn gặp khó khăn trước những tấn công lẻ tẻ bằng súng
đại bác không giật từ những hốc đá. Một toán tiền quân của Đại Đội
11 đã diệt được toán tiền sát viên pháo binh của địch gồm 2 người đã
chết do cụt chân vì mìn hơi và một người còn sống với đầy đủ máy
truyền tin, bản đồ, và địa bàn. Từ đó vị trí các lực lượng bạn không
còn bị pháo kích chính xác nữa. Sau khi chiếm được Đông Lâm, hai Đại
Đội 11 và 14 trực chỉ tới mục tiêu B.
Tiểu Ðoàn 9 ND giữ trục chính, đi dọc theo cánh
đồng rộng phía Bắc sông Vu Gia, chiếm lĩnh dãy đồi thấp có rừng chồi
che phủ. Từ dãy đồi thấp phía Nam dãy Sơn Gà, Trung Úy Nhơn, Đại Đội
Trưởng Ðại Ðội 92, Trung Úy Thăng, Đại Đội Trưởng Ðại Ðội 94, Đại Úy
Trọng, Đại Đội Trưởng Ðại Ðội 91, cùng Đại Đội 93 của Đại Úy Tửu
phải băng qua một cánh rừng tràm để đến đồi 383 rồi mới tiến sát tới
đỉnh 1062, . Các chiến sĩ của Tiểu Ðoàn 9 không sao qua đến được bìa
rừng dưới chân núi Đông Lâm, vì hỏa lực từ cứ điểm B1 trên sườn núi
chế ngự. Cứ điểm này vô cùng kiên cố, vừa ở cao, vừa được che chở
bởi các tảng đá lớn chồng lên nhau. Tiểu Ðoàn 9 đã dùng rất nhiều
phi pháo nhưng vẫn không tiêu diệt được. Đại Úy Tửu bị thương chân
nên Đại Úy Tường từ Ðại Ðội 90 ra thay thế.
Từ đỉnh Đông Lâm, Tiểu Ðoàn 1 nhờ lợi thế hơn 2
cánh quân bạn, nên tiến quân tốc độ cũng nhanh hơn. Do đó Tiểu Ðoàn
1 từ cao điểm đã bảo vệ hữu hiệu sườn phải cho Lữ Đoàn. Qua sự phối
hợp hàng ngang với Tiểu Ðoàn 9, Tiểu Ðoàn 1 đã cho lệnh Đại Ðội 11
đánh bọc hậu phía sau xuống cứ điểm B1, nơi địch đang cầm chân tiền
quân của Tiểu Ðoàn 9.
Xuyên qua thung lũng, Ðại Úy Thể dẫn quân tấn
công vào phía sau B1 một cách bất ngờ ở ngay sau lưng địch. Đối diện
với Cộng quân là Tiểu Ðoàn 9 Dù đang bị cầm chân ở tại dốc đá. Nhờ
lợi thế cao, Đại Ðội 11 để lại một trung đội ở B để đóng chốt và giữ
ba lô cho các trung đội khác. Thành phần còn lại tập trung hỏa lực,
xung phong đánh thần tốc và tràn ngập cứ điểm B1.
Quân CS Bắc Việt hoảng hốt xả chốt chạy tán loạn,
chỉ trong vòng 2 tiếng đồng hồ, Ðại Ðội 11 đã kiểm soát hoàn toàn
các đỉnh đá ở phía Nam của B. Chốt B1 được giải tỏa dễ dàng với
chiến lợi phẩm là 1 súng cối 61 ly, 1 thượng liên, 7 súng AK, 4 khẩu
B-40, 1 điện thoại, một số đạn 72 ly nhưng không tìm được súng. Sau
này Tiểu Ðoàn 11 của Trung Tá Lê Văn Mễ dùng nơi đây làm chỗ đóng
quân tạm thời cho Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn.
Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù tấn công 1062:
Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù tấn công 1062:
Trời sẩm tối, chờ bắt tay với Tiểu Ðoàn 9 không
được, Ðại Ðội 11 phải tạm đóng quân đêm tại B và B1. Đêm đó, đặc
công địch bò trở lại đột kích B1 bằng B-40 rồi bỏ chạy. Chuẩn Úy
Tuyến Trung Đội Trưởng bị hy sinh. Sáng hôm sau 20/8/1974, địch pháo
kích mạnh mẽ bằng đạn 122 ly vào B và B1 nhưng không chính xác nên
không bị tổn thất. Khoảng 11 giờ trưa, Thiếu Tá Quý và Ðại Ðội 14
bắt tay với Tiểu Ðoàn 9 cũng xuất hiện và đóng chốt tại B2.
Kế đó, TĐ1ND tiếp tục tiến về cứ điểm C, một tiền
đồn mạnh mẽ của quân CS Bắc Việt. Ðại Ðội 14 đi đầu và chạm địch.
Thiếu Tá Nguyễn Văn Quý đi với cánh quân bọc hậu là Ðại Ðội 11 của
Đại Úy Thể. Một phần vì địa thế hiểm trở, thêm vào đó yếu tố bất ngờ
không còn nữa. Địch đã chuẩn bị sẵn sàng với hầm hố kiên cố để đón
Ðại Ðội 14. Lại thêm rừng cây cổ thụ cao lớn, ta sử dụng pháo binh
rất khó vì sợ đạn chạm ngọn cây nổ từ cao gây thương tích cho quân
bạn.
Suốt 3 ngày cầm cự, Ðại Ðội 14 không thể tiến lên
được đành phải án binh tại chỗ. Thiếu Tá Quý đẩy Ðại Ðội 11 thọc sâu
về phía Tây rồi từ đó tiến đánh C bằng hướng Nam. Quân Bắc Việt trên
cao, quân ta dưới thấp, nhưng nhờ hốc đá nên Ðại Ðội 11 bám sát tiến
lần vào cách mục tiêu C khoảng 200 thước, và phải dừng lại vì sợ lọt
vào tầm lựu đạn. Tiểu Ðoàn 1 sử dụng đại bác 57 ly và súng cối 81 ly
để có thể bắn chính xác vào mục tiêu. Thiếu Tá Quý cho tập trung 5
khẩu đại liên M-60 chờ cho Tiểu Đoàn bắn hơi cay để địch chạy ra
khỏi hầm trú ẩn, thì tập trung hỏa lực mạnh mẽ bắn phủ đầu địch.
Ðại Ðội 14 bất thần xuyên nhanh qua yên ngựa để
chiếm C, từng tổ 3 người bò dưới hỏa lực tiến vào mục tiêu dùng lựu
đạn ném vào phòng tuyến địch, rồi lập tức xung phong chiếm hầm hố
địch làm đầu cầu. Kế đó họ bung rộng ra đánh chiếm từng hầm một.
Thừa thắng Thiếu Tá Quý đẩy Ðại Ðội 14 qua thẳng 1062, nhưng mọi dự
tính không xảy ra như mong muốn, và cũng từ đó Ðại Ðội 11 và Ðại Ðội
14 phải trả giá rất đắt.
Sau khi địch tháo chạy vì sự tấn công quá dũng mãnh của các chiến sĩ thiện chiến Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, hai Ðại Ðội 11 và 14 chia nhau bố trí lập vị trí phòng thủ sơ khởi để ngăn ngừa địch phản công. Một trận mưa cối sơn pháo 120 ly của Bắc quân bủa xuống, tiếng nổ vang khắp rừng già, khói phủ mù mịt trận địa. Nhờ bung rộng và hầm hố kiên cố của địch để lại, nên binh sĩ ta tránh được thiệt hại nặng nề bởi trận mưa pháo tập trung và chính xác này.
Sau khi địch tháo chạy vì sự tấn công quá dũng mãnh của các chiến sĩ thiện chiến Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, hai Ðại Ðội 11 và 14 chia nhau bố trí lập vị trí phòng thủ sơ khởi để ngăn ngừa địch phản công. Một trận mưa cối sơn pháo 120 ly của Bắc quân bủa xuống, tiếng nổ vang khắp rừng già, khói phủ mù mịt trận địa. Nhờ bung rộng và hầm hố kiên cố của địch để lại, nên binh sĩ ta tránh được thiệt hại nặng nề bởi trận mưa pháo tập trung và chính xác này.
Càng tiến gần về 1062, địa thế càng hiểm trở,
rừng rậm hơn, cây to nhiều hơn, sườn càng dốc đứng hơn. Từ cứ điểm C
nhìn lên mục tiêu, ở cao hơn 2 vòng cao độ (theo bản đồ quân sự
tương đương 20 thước). Cách xa chừng 150 thước, ta thấy rõ địch đang
lố nhố chạy tới chạy lui tăng cường phòng thủ. Thiếu Tá Quý gọi xin
pháo binh bắn "cắm chỉ" lên mục tiêu đó ngày và đêm. Đây được gọi là
mục tiêu D, một trong 5 đỉnh của 1062. Giữa C và D là một thung lũng
(eo yên ngựa) sâu khoảng hơn 20 thước. Như vậy quân ta nếu tấn công
mục tiêu D, ít nhất phải vượt lên một dốc đứng cao tới hơn 40 thước.
Từ D, địch thỉnh thoảng bắn trực xạ bằng đại bác và thượng liên
xuống mục tiêu C, nhưng không gây thiệt hại đáng kể nào cho quân
bạn.
Lúc nầy Tiểu Ðoàn 8 và 9 còn cách quá xa 1062,
chỉ có Tiểu Ðoàn 1 là gần và đang ở cao địa, không ai bảo vệ cạnh
sườn để tiếp ứng kịp thời. Địa thế địch hiểm trở dễ thủ khó công.
Địch chuẩn bị chiến trường đợi ta với những trận địa pháo và hầm hố
kiên cố.
Đỉnh 1062, có 5 đỉnh nhỏ. Năm đỉnh nhỏ này nằm
theo thế liên hoàn, yểm trợ cho nhau bằng hỏa lực dễ dàng. Diện tích
rộng khoảng 2 đại đội mới bao phủ nổi. Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù quyết
định đột kích đêm và lợi dụng gió Đông làm một trận hỏa công. Lực
lượng xung kích gồm 2 Trung Đội với Thiếu Úy Lê Văn Bá chỉ huy một
Trung Đội thuộc Ðại Ðội 14 và Thiếu Úy Trần Thanh Quang chỉ huy một
Trung Đội của Ðại Ðội 11. Đây là 2 Sĩ Quan xuất sắc đã từng lập
nhiều thành tích chiến thắng cho Tiểu Đoàn. Ðại Ðội 11 làm thành
phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng kịp thời cho lực lượng tấn công. Tần
số liên lạc thuộc nội bộ của Ðại Ðội 11 do Thiếu Tá Quý trực tiếp
chỉ huy. Hỏa lực yểm trợ gồm súng cối 60 ly và 81 ly đã được chuẩn
bị yếu tố tác xạ sẵn sàng.
Sáu giờ chiều, ánh sáng mặt trời trong rừng già
đã tắt hẳn. Hai Trung Đội bắt đầu xuất phát. Thiếu Úy Quang dẫn
trung đội đi bên trái, trung đội Thiếu Úy Bá bên phải. Họ giữ đội
hình đi song song và cách nhau khoảng từ 30 đến 40 thước. Pháo Binh
105 ly của ta vẫn đều đều bắn cắm chỉ trên mục tiêu để địch lo trốn
trong hầm, không ngóc đầu lên quan sát quân ta đang di chuyển. Một
giờ, hai giờ, rồi 3 giờ trôi qua. Tình hình vẫn yên tỉnh, một thứ im
lặng ngộp thở, vì mọi người đều lo cho số phận của đồng đội của
mình. Hệ thống liên lạc vẫn tốt, Thiếu Úy Quang thì thầm trong máy:
- Rất gần địch, tiếng chửi thề của chúng nó nghe
rõ mồn một, đích thân.
- Được! Cẩn thận nghe Quang! Thiếu Tá Quý trả lời
nho nhỏ trong máy với giọng Huế chay.
Bỗng nghe một loạt đạn nổ bên phải rồi im lặng.
Pháo Binh ngưng tác xạ, hai cánh quân vừa bắn vừa hô xung phong vang
rền cả núi rừng hoang vu. Lửa bắt đầu cháy trên mục tiêu, nhiều nhất
là bên cánh Thiếu Úy Quang. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù xin Pháo
Binh chuyển tác xạ về hướng Tây để bắn chận quân địch. Tiếng của
Quang vang trong máy:
- Chiếm được đỉnh rồi đích thân! Hầm quá nhiều và
kiên cố, làm toàn bằng cây to. Mấy đứa con đang bung rộng chờ cánh
quân bên phải!
Trời tối đen như mực, vẫn chưa liên lạc được
Thiếu Úy Bá. Mười lăm phút sau, Thiếu Tá Quý đứng dưới mục tiêu C
thấy trên D có từng cụm lửa lóe lên chen lẫn trận địa pháo bằng súng
cối sơn pháo 120 ly của địch.
Tiếng của Quang vang lên trong máy:
Tiếng của Quang vang lên trong máy:
- Chúng pháo dữ quá đích thân, nhưng hầm hố kiên
cố, không sao!
Rồi hàng loạt tiếng đạn AK-47 kêu rít, tiếng
Quang hét trong máy:
- Chúng nó phản công, đông lắm! Cho Pháo Binh bắn
trên đầu tôi, tụi nó đông như kiến! Mau lên! Pháo! Pháo mau lên!
Ban đêm trời tối, Ðại Ðội 11 trừ bị cho Quang và
Bá đang ở lưng đồi yên ngựa. Trung đội Thiếu Úy Bá thì không liên
lạc được ngay từ loạt đạn đầu, sau này mới biết được Bá và 4 binh sĩ
đã hy sinh vì mìn claymore (Việt Cộng lấy của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh)
ngay từ lúc đó.
Thiếu Tá Ngô Tùng Châu (Tiểu Đoàn Trưởng) bảo Quý:
Thiếu Tá Ngô Tùng Châu (Tiểu Đoàn Trưởng) bảo Quý:
- Nếu thấy không được thì bảo Quang rút về, đừng
hy sinh nhiều, ta sẽ tìm cách khác.
Nhưng Quang không nghe lệnh (hoặc không thể nghe
lệnh!). Hai Trung Đội đột kích của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù đã gặp sự
kháng cự phản công quá mãnh liệt, quân số địch rất đông. Từ đỉnh
cao, khe núi, và các địa đạo trong rừng cây ùa ra như đàn ong vỡ tổ!
Lính Nhảy Dù ria bắn không nghỉ tay. Trước khi gần hết đạn, Quang
gọi Thiếu Tá Quý phải kêu Pháo Binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu
thí quân, quyết liều sống chết với quân Cộng Sản Bắc Việt (CSBV).
T/U Quang đã tập trung đạn của các binh sĩ bị thương, bảo họ rút,
còn Quang thì ở lại bắn tới hết đạn và anh dũng hy sinh trên mục
tiêu D. Đáng phục thay một Sĩ-Quan can trường, biết hy sinh bảo vệ
thuộc cấp và làm tròn bổn phận với núi sông.
Các đạn pháo CVT đã sát hại 10 phần địch và 3
phần quân bạn. Xác địch và ta nằm ngổn ngang trên đỉnh đồi 1062.
Trung Đội của Thiếu Úy Quang có 15 chiến sỉ anh dũng hy sinh.
Ðại Ðội 14 của Trung Úy Vệ bị kẹt cứng ở yên ngựa
nhỏ hẹp giữa mục tiêu C và mục tiêu D, hỏa lực Việt Cộng phủ kín từ
D và 1062. Ðại Ðội 14 tổn thất mỗi lúc một nhiều mà không tiến được
bước nào. Pháo Binh Dù được sử dụng tối đa nhưng địa thế núi cao cây
rậm Pháo Binh phải bắn góc độ cao mới "gõ" vào 1062 được, nhưng với
độ chính xác thật ít.
Thiếu Tá Quý lại dùng kế cũ, dương đông kích tây,
đẩy Ðại Ðội 11 về Tây để tấn công 1062 từ chính Nam nhằm giải tỏa áp
lực Ðại Ðội 14 như trường hợp đánh mục tiêu C. Nhưng lần này sự việc
không như lần trước, Ðại Ðội 11 vừa mới đến triền núi phía Nam của
1062 thì địch dùng súng cối 82 ly từ góc đồi phía Tây bắn một cách
dữ dội, Ðại Ðội 11 bị hy sinh một tiền sát viên và 4 binh sĩ chưa kể
một số bị thương.
Rạng sáng, sau khi sử dụng Pháo Binh và súng cối
81 ly tối đa tối đa, Ðại Ðội 11 dàn 3 trung đội tấn công 1062 từ
chính Nam. Hai bên quần thảo gần 6 tiếng đồng hồ, cuối cùng Ðại Ðội
11 chiếm được đỉnh 1062. Nhưng chưa đầy 10 phút, quân Bắc Việt đã từ
D1 và D2 đồng loạt khai hỏa bằng đủ loại vũ khí phủ trùm 1062. May
nhờ hệ thống giao thông hào của địch để lại nên cũng giảm bớt phần
nào tổn thất.
Thượng liên Cộng quân bắn liên hồi từ nhiều vị
trí, và nhất là đạn súng cối 61 ly của địch. Ngay đợt pháo đầu Thiếu
Úy Huệ đã bị thương. Đỉnh 1062 trước đó đã bị phi pháo quần nát từ
rậm rạp nay chỉ còn lại một đồi trọc với đất cát vàng cày xới tung
tóe. Ðại Ðội 11 không chịu nổi phải rút về triền núi phía Nam, Huệ
kéo xuống được còn xác Thiếu Úy Quang bị cháy đen..
Tổn thất Ðại Ðội 11: Thiếu Úy Quang và 15 binh sĩ
hy sinh. Ba mươi bảy bị thương trong đó có hai Sỉ Quan Trung Đội
Trưởng là Thiếu Úy Huệ và Thiếu Úy Quách An.
Trong khi đó Ðại Ðội 14 cũng cố gắng xuyên thủng
chốt địch trong hốc đá ở yên ngựa để lên 1062 bắt tay với Ðại Ðội
11, nhưng mọi dự tính không thành. Trung Úy Vệ bị thương, Trung Úy
Bằng, Ðại Ðội Phó Ðại Ðội 11 qua thay, hai ngày sau cũng bị tử
thương vì lựu đạn địch. Eo yên ngựa giống như một khúc xương kẹt
ngay cổ họng, thật khó nuốt vô cùng.
Riêng Ðại Ðội 12 của Trung Úy Thọ và Ðại Ðội 15
của Đại Úy Lộc đi với Thiếu Tá Ngô Tùng Châu vẫn lục soát và làm
thành phần trừ bị ở Đông Lâm. Trung Úy Thọ bị thương do pháo kích,
Trung Úy Khánh (Truyền Tin) ra thay cũng bị tử thương. Vài hôm sau,
Tiểu Ðoàn 8 của Thiếu Tá Vân vào thay. Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù rút về Hà
Nha dưỡng quân và bổ sung quân số.
Xa Luân Chiến, Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù xông trận:
Xa Luân Chiến, Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù xông trận:
Theo kế hoạch, Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù được điều động
lên thay thế Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù để tiếp tục đánh chiếm 1062. Cuộc
chiến trở nên khốc liệt hơn khi Tiểu Đoàn 8 bỏ Hà Nha, chuyển lên
núi để thay thế cho đơn vị bạn tấn công địch quân trên các cao điểm.
Địch vào trận với lợi thế trên sân nhà, họ lợi
dụng tối đa địa thế, địa hình. Khi quân ta vừa băng qua một trảng
trống thì bị địch nghênh cản rất mạnh mẽ, nếu nhìn chung quanh có
những tảng đá lớn chênh vênh trên sườn núi thì đừng có dại dột chạy
vào ẩn nấp, sau lưng tảng đá là một bãi mìn gài sẵn. Địch từ vị trí
thuận lợi trên cao nhìn xuống thấy rõ từng người lính đang hút
thuốc, đang nấu nướng, địch dùng súng cối 61 ly bắn vào quân ta.
Khi TĐ8ND lên thay thế TĐ1ND để tiến chiếm cao điểm 1062, sức lực của đơn vị cũng đã sức mẻ phần nào, còn lại bao nhiêu sinh lực ta dồn vào cú chót, được ăn cả ngã về không. Đỉnh 1062 là một nấm mộ tập thể khổng lồ, chôn không biết bao nhiêu sinh mạng của cả hai bên. Mỗi khi quân ta vừa chiếm được 1062, thì lập tức địch dội pháo, điên cuồng xông lên quyết chiếm lại cho bằng được. Cả hai bên mất đi dành lại đỉnh 1062 nhiều lần, cứ như hai gã thanh niên cùng tranh dành một cô gái thơm như múi mít, bên nào cũng đòi quyền sở hữu em gái, không ai chịu nhường ai.
Khi TĐ8ND lên thay thế TĐ1ND để tiến chiếm cao điểm 1062, sức lực của đơn vị cũng đã sức mẻ phần nào, còn lại bao nhiêu sinh lực ta dồn vào cú chót, được ăn cả ngã về không. Đỉnh 1062 là một nấm mộ tập thể khổng lồ, chôn không biết bao nhiêu sinh mạng của cả hai bên. Mỗi khi quân ta vừa chiếm được 1062, thì lập tức địch dội pháo, điên cuồng xông lên quyết chiếm lại cho bằng được. Cả hai bên mất đi dành lại đỉnh 1062 nhiều lần, cứ như hai gã thanh niên cùng tranh dành một cô gái thơm như múi mít, bên nào cũng đòi quyền sở hữu em gái, không ai chịu nhường ai.
Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng Nguyễn Quang Vân, cho
Đại Ðội 84 của Minh và 83 của Hiệu làm 2 mũi dùi tấn công sườn phải
phía Đông 1062. Chờ phi pháo dập nát đỉnh đồi, rồi trời vừa chợp
sáng Thiếu Tá Vân dẫn Ðại Ðội 81 của Võ Thế Hùng và Ðại Ðội 82 của
Nam, xuất phát từ chân đèo Thường Đức leo lên dọc theo đường đỉnh về
hướng Bắc, mục tiêu là đồi 1062.
Các binh sĩ Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù leo dốc đứng (độ
nghiêng 70 độ) đồng loạt tiến về mục tiêu. Đứng trên 1062, ta thấy
có 5 đỉnh nhỏ nằm gần nhau, làm thành hình tròn theo thế liên hoàn;
mặt hướng về Tỉnh Lộ 4 thì dốc thẳng đứng, rất khó leo. Cộng quân
thường dùng giàn thung ném một lần hàng chục quả lựu đạn xuống mỗi
khi quân ta tấn công vào mặt này. Còn các hướng khác thì có 4 đỉnh
nhỏ che chở nên 1062 quả là một địa thế dễ thủ khó công. Từ Tỉnh Lộ
4 muốn leo lên 1062 phải qua những đỉnh nhỏ 126, 383, xuyên qua
những yên ngựa chập chùng như sóng gợn.
Hai Đại Ðội 83 và 84 do Thiếu Tá Trần Toán chỉ
huy đi băng qua khu vực Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù tới mục tiêu C của Tiểu
Ðoàn 1 Nhảy Dù, bọc vòng lên đỉnh cao bên dãy Sơn Gà để từ mục tiêu
C băng qua yên ngựa đánh lên 1062. Đại đội 81 của Đại Úy Hùng và 82
của Nam lợi dụng đêm tối lén bò lên đánh vào sườn dốc đứng (vì mặt
này địch chỉ phòng thủ hời hợt chúng cho là ta không thể nào dám vào
hướng nầy, vì sẽ làm mồi cho lựu đạn.
Ba giờ khuya xuất phát tấn công, sau khi cho phi
pháo dập nát đỉnh đồi, Hiệu, Minh, và Hùng dẫn đầu các cánh quân
trèo lên ngọn 1062, Ðại Ðội 84 của Trung Úy Hùng "ốm" làm thành phần
trừ bị. Đoạn đường gai gốc hiểm trở. Những binh sĩ Dù dùng kế dương
đông kích tây, lợi dụng địch đang đang phân tán phòng thủ và bị phi
pháo dập liên tục, Hùng, Minh, và Hiệu chia từng tổ 3 người bò lên
đỉnh núi, diệt từng chốt nhỏ, rồi leo lên. Đây là những giây phút
đùa với tử thần, mà cái chết đến với họ bất cứ lúc nào. Nếu một trái
lựu đạn của địch thả trúng, hay bị trượt chân xuống, họ có thể chết
tan xác. Trèo lên vách đá dựng đứng, cao hàng trăm thước, trước khi
tới miệng hầm, họ dùng lựu đạn tiêu diệt các chốt địch.
Những người binh sĩ Nhảy Dù gan dạ, anh hùng của
các Đại Ðội 81, 83, và 84 nầy đã phải tránh được từ 5 đến hàng chục
quả lựu đạn do địch từ trên cao ném xuống. Muốn sống, muốn chiếm
được đồi 1062, họ phải vừa quan sát, vừa trèo, và vừa tránh né, làm
sao để những trái lựu đạn đừng nổ trên nón sắt hay nổ ở lưng chừng
núi.
Không phải ai cũng được bình an lên tới đỉnh núi.
Một quả lựu đạn đã rơi trúng nơi trú ẩn của Thiếu Úy Đoàn Tấn và
Chuẩn Úy Đến thuộc Ðại Ðội 81 khiến hai anh bị thương vong. Lúc quả
lựu đạn vừa rơi tới, Thiếu Úy Tấn định nhào lại lấy thân mình che
cho đồng đội, nhưng không kịp nữa. Quả lựu đạn đã tung nổ, khiến hai
người bị trúng nhiều mảnh vào chỗ hiểm. Riêng Trung Úy Thạch và
Thiếu Úy Hà Mai Trường, thuộc Đại Đội 84 của Minh, vì hăng hái leo
lên nên cũng bị thương.
"Cái giá" để chiếm được đồi 1062 thực sự là một
cái giá rất cao, cao nhất của chiến trận mà các chiến sĩ Dù đã gặp
phải từ trước tới nay. Năm tiểu đoàn Dù bị tổn thất nặng, nặng nhất
là Tiểu Ðoàn 3 của Thiếu Tá Võ Thanh Đồng, quân số hao hụt gần 50
phần trăm.
Đại Úy Hiệu dẫn đại đội 83 xuyên qua Tiểu Ðoàn 9
Nhảy Dù, tiến về mục tiêu C thay thế Ðại Ðội 11 của Đại Úy Trần Văn
Thể. Thể bảo Hiệu:
- Sư Ðoàn Điện Biên 304 đó, phải cẩn thận vì địch
có lợi thế cao và hầm hố kiên cố.
Trên trục tiến quân có rất nhiều chướng ngại vật,
cây cối um tùm, và địch đã gài nhiều mìn bẫy. Cộng quân dùng giàn ná
phóng hàng chục quả lựu đạn xuống thật nguy hiểm vô cùng. Địch cũng
bắn trực xạ bằng đại bác hoặc sơn pháo, vì thế các Ðại Ðội 81 (cánh
trái), Ðại Ðội 84 (cánh phải), cùng Ðại Ðội 83 đã thử đột kích đêm
nhưng không kết quả.
Địch chỉ ngồi trên cao đạp những tảng đá và liệng
lựu đạn chày xuống làm những chốt đóng gần bị thương hằng ngày. Quân
số các đại đội cứ hao hụt dần. Thiếu Tá Nguyễn Quang Vân thường gọi
máy đốc thúc nhưng vì địa thế quá hiểm trở nên các đại đội cứ dậm
chân tại chỗ.
Sang ngày thứ 4 sau ngày thay Tiểu Ðoàn 1 Nhảy
Dù, vì không thể theo đường đỉnh yên ngựa tấn công, nên lợi dụng ban
ngày địch không chú ý, Đại Úy Hiệu dẫn quân tiến theo đường thông
thủy giữa 2 đỉnh 1062 và đồi Không Tên ở phía Nam 1062. Khi tiền
quân Ðại Ðội 83 tiến còn cách 1062 khoảng 50 thước thì địch nghe
động nhưng không phát giác là có nguyên đại đội. Cộng quân bắn dọa
(vì không ngờ quân ta dám leo dốc cao) xuống thung lũng với thượng
liên, B-40, nhưng vô hiệu nhờ các tản đá lớn 2 bên sườn núi che chở,
và đồng thời các Ðại Ðội 81, Ðại Ðội 84 bắn yểm trợ khiến địch phải
phân tán mỏng để phòng thủ.
Vị trí đóng quân giửa TĐ8ND và địch quân chỉ cách
nhau khoảng 50m, đôi bên giử thế cài răng lược gờm nhau đã suốt 2
tuần lể, chờ cho đối phương sơ hở là thịt ngay. Tinh thần mọi người
luôn căng thẳng, chỉ sơ suất một giây lát là vong mạng.
Lúc 8.30 tối, Cộng quân từ cao điểm hai ngọn đồi
1062 bất thần tấn công xuống 2 mặt, các chiến sỉ Nhảy Dù phản công
quyết liệt, và gọi Pháo Binh tác xạ cận phòng dội ngay lên đầu địch.
Quân CS thấy Nhảy Dù chống trả quyết liệt và pháo binh tác xạ dữ dội
nên chúng rút lui.
Sáng hôm sau địch quân tấn công ban ngày, vì biết
Nhảy Dù ở sát nách, chúng cần phải bứng gốc mới mong giữ được 1062.
Các Đại Đội 81,83 và 84 cho các chốt bung rộng ra và bám sát tuyến
địch. Tất cả các tuyến đều chạm địch. Trung Úy Vũ Đức Tiềm, một
Trung Đội Trưởng bị tử thương. Đại Úy Đồng Văn Minh và Trung Úy Hà
Mai Trường bị thương nặng phải di tản.
Gần 1 tháng quần thảo Ta và địch đều bị tổn thất
nặng quanh đỉnh 1062. Chiếm xong lại mất, mất rồi thì chiếm lại bằng
mọi giá. Ngày 19/9/1974 LĐ1ND quyết định tấn chiếm đỉnh đồi 1062, ra
lịnh cho các đơn vị lui lại 200m để phi pháo và pháo binh tác xạ
liên tục từ 6.00 đến 7.30 giờ cho địch quân không ngốc đầu nổi. Sau
đó tất cả đơn vị xung kích Nhảy Dù xung phong tràn lên mục tiêu. Một
số lớn cộng quân run rẩy qùy lạy đầu hàng. Họ được đối xử tử tế,
băng bó vết thương, cho ăn uống và thuốc hút. Họ nói “chúng tôi nghe
tuyên truyền rằng lính Dù các anh ác ôn hung dữ lắm, sao hôm nay các
Anh đối xử tốt với chúng tôi quá vậy?”
Sau đó TĐ8ND bung rộng ra lục soát quanh đỉnh đồi
tìm thấy trên 300 xác giặc bắt sống thêm 7 tù binh tịch thu gần 200
khẩu súng đủ loại… Sau khi thu dọn chiến trường, TĐ8ND phối trí các
đơn vị chiếm giữ các cao điểm và cho binh sỉ bố phòng chuẩn bị địch
quân tấn công trả đủa. Nhờ vào địa thế cộng quân làm sẳn các công sự
nên các chiến sỉ Dù cũng đở phải vất vả.
Khoảng 2.00 giờ chiều, địch quân bắt đầu pháo tập
dữ dội vào 1062 cho đến chiều tối, sau đó tung 3 Trung Đoàn 29, 24
và 66 của SĐ Điện Biên, đơn vị thiện chiến số một của Tướng Giáp,
tăng cường Trung Đoàn 31 thuộc SĐ2 CSBV quyết tâm tràn ngập và chiếm
lại cứ điểm 1062, khắp các tiền đồn đều chạm địch.
Đến 1.00 giờ đêm ngày 20/9, Cộng quân ào ạt tấn
công vào 1062. Nhờ chuẩn bị trước, TĐ8ND gọi pháo binh tác xạ vào
các điểm hỏa tập tiên liệu cận phòng nên các chiến sỉ Tiểu Đoàn 8
vẫn giữ vững phòng tuyến. Đến 4 giờ chiều, Trung Đoàn Sông Hồng tung
thêm lực lượng trừ bị cuối cùng vào trận chiến. Vào giờ nầy, lực
lượng địch bu quanh 1062 dầy đặc như ruồi bu quanh viên kẹo.
Lữ Đoàn 1ND ra lịnh TĐ8ND lui binh về sau khoảng
200 thuớc, dùng phi pháo tiêu diệt địch quân đang bao quanh đỉnh
1062 đông như kiến. Sau các phi vụ oanh kích của Không Quân VNCH,
TĐ8ND trở lại tấn kích tái chiếm ngọn đồi chiến lược nầy, đồng thời
tung thêm các đơn vị Đa Năng và Trinh sát xâm nhập sâu vào các hốc
đá, khe núi chỉ điểm các vị trí đặt pháo của địch nên pháo binh và
không quân phản pháo chính xác tiêu diệt được Bộ chỉ huy Trung Đoàn
Sông Hồng đầu nảo của VC tại phía Đông Bắc của đồi 1062 khiến địch
quân phải tháo lui, bỏ lại chiến trường trên 200 xác chết, nhiều
súng cộng đồng và cá nhân, bắt sống 40 tù binh thuộc Trung Đoàn Sông
Hồng.
Ngày 2/10/1974 quân CSBV dự định thêm một lần nửa
tấn công biển người để tái chiếm căn cứ 1062 nhưng bị Không quân
VNCH và pháo binh ND yểm trợ hoả tập kịp thời và chính xác vào các
ngọn đồi 383 và 126 gây tổn thất cho địch trên 250 nhân mạng.
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù tham chiến:
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù tham chiến:
Sau đó, áp dụng chiến thuật xa luân chiến, Tiểu
Ðoàn 3 ND do Trung Tá Võ Thanh Đồng (Tiểu Đoàn Trưởng) và Thiếu Tá
Trương Văn Vân (Tiểu Đoàn Phó), được lệnh vào thay Tiểu Ðoàn 8. Vừa
ở đồi 1062 khoảng một vài ngày thì Tiểu Ðoàn 3 ND bị địch trở lại
phản công ào ạt. Phía Bắc Việt định tái chiếm đồi nầy bằng chiến
thuật tiền pháo hậu xung. Một số sơn pháo của họ bắn trực xạ từ sườn
núi đối diện.
Ngày 29/10/1974, chiều hôm đó trận địa im tiếng
sung, tình hình các nơi yên tỉnh, nhưng binh sĩ canh gác tiền đồn
thấy nhiều lá cây di động trông rất khả nghi. Thiếu Tá Vân ra lịnh
cho các đơn vị trực thuộc báo động đề cao cảnh giác, kiểm soát các
tuyến phòng thủ, gài mìn Claymore và canh gác cẩn thận, sẵn sàng tư
thế đề phòng địch tấn công bất ngờ.
Bỗng súng nổ liên hồi ở khu vực của Đại Đội 31
của Đ/U Ngụy Văn Đàng. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đứng trên đỉnh 1062 theo
dõi châm chú trận đánh. Cối 75 ly và sơn pháo của địch từ những cao
độ phía Tây Bắc bắn từng nhịp 4 trái và bộ đội Bắc Việt từ hướng đó
đồng loạt tiến vào. Cộng quân dùng chiến thuật biển người, chẳng
điều động, ẩn núp gì cả. Lính Nhảy Dù đồng đứng dậy khỏi giao thông
hào bắn trả mãnh liệt. Súng bắn không cần nhắm, lựu đạn ném không
cần lấy đà. Hàng hàng lớp lớp cộng quân rơi rụng.
Cuộc tấn công kéo dài trong nhiều đợt. Bộ đội Bắc
Việt đồng loạt tấn công vào tuyến phòng thủ của Đại Đội 31 đang đóng
tiền đồn tại đỉnh yên ngựa 1062 và ngọn đồi không tên. Hằng trăm
lính của Sư Đoàn Điện Biên cùng ào lên 1062 một lượt. Họ giành giật
trên mảnh đất cằn cổi, tan hoang để tìm kiếm thức ăn. Họ tìm những
bịch gạo sấy, thịt hộp, C Ration, cuối đường của giải phóng "Mỹ
ngụy" là sự tranh giành những hộp thịt được làm tại Mỹ!
Thiếu Tá Vân nghe tiếng Đ/U Đàng hét trong máy xin pháo binh và phi cơ bắn lên đỉnh đồi, vì địch đã tràn ngập! Hai bên phải đánh cận chiến bằng lưỡi lê và lựu đạn, nhưng địch nhiều quá, cứ liều chết nhào tới tấn công. Đ/U Đàng và anh em trong đại đội cầm cự, xông xáo, tả xung hữu đột, người nào trên mình cũng bị nhiều vết thương, áo ướt đầy máu. Đàng nguyên là sĩ quan cận vệ của Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh.
Thiếu Tá Vân nghe tiếng Đ/U Đàng hét trong máy xin pháo binh và phi cơ bắn lên đỉnh đồi, vì địch đã tràn ngập! Hai bên phải đánh cận chiến bằng lưỡi lê và lựu đạn, nhưng địch nhiều quá, cứ liều chết nhào tới tấn công. Đ/U Đàng và anh em trong đại đội cầm cự, xông xáo, tả xung hữu đột, người nào trên mình cũng bị nhiều vết thương, áo ướt đầy máu. Đàng nguyên là sĩ quan cận vệ của Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh.
BCH Tiểu đoàn gọi 3 phi tuần khu trục dội bom
Napalm xuống đốt cháy sườn đồi. Sau đó, từng đợt pháo binh bắn hỏa
tập trợ chiến. Sau khi pháo dứt, những cán binh Bắc Việt lại tràn
lên thấy Đàng bị thương nặng còn ngất ngư vì trúng nhiều mảnh, anh
dùng hơi tàn rút súng định tự sát, thì người anh bị đạn ghim như
lông nhím. Đàng ngồi chết trân mà đôi mắt hãy còn trợn trừng không
khuất phục.
Đại Ðội 34 của Trung Úy Thư, lên tiếp ứng thì gặp
địch tràn tới đánh tơi bời thật hung hiểm vô cùng! Ðịch hô: "Hàng
sống chống chết," nhưng Thư cứ hăng máu lấy AR-15 quạt và kêu pháo
binh bắn đạn nổ chụp lên đầu để cùng chết chung với 5 phần địch 1
phần bạn. Một mình Tiểu Ðoàn 3 ND mà phải cầm cự với cả trung đoàn
của Sư Ðoàn 304, địch cho các đơn vị thay phiên tấn công gần một
ngày. Các sĩ quan dũng mãnh của Tiểu Ðoàn 3 ND như Đại Úy Phạm Văn
Thư, Thiếu Úy Tô Văn Nhị đã gọi pháo binh bắn lên đầu để cùng chết
chung với hằng trăm xác địch.
Do áp lực địch quá mạnh, lực lượng phòng thủ 1062
của Nhảy Dù phải rút khỏi cứ điểm nầy (2 ĐĐ 31ND, ĐĐT là Đ/U Ngụy
Văn Đàng và 34ND, ĐĐT là Trung Úy Phạm Văn Thư cùng 7 Sỉ Quan Trung
Đội Trưởng và trên 140 HSQ&BS bị hy sinh vì pháo địch ). Mặc dù có
những công sự do Cộng quân đã chuẩn bị các "lô cốt" bằng những khúc
cây kiên cố, tuy nhiên địch quân quá đông, phía Nhảy Dù rút lui để
cho dụ địch tập trung vào đỉnh 1062, sau đó dùng "hỏa công" đốt cháy
toàn khu ác liệt nầy bằng bom Napalm và bằng các viên đạn lửa bắn
vào bãi lau sậy.
Ngày 1/11/1974, CSBV tái chiếm đỉnh đồi 1062.
Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù được lịnh vào vùng tiếp ứng cho TĐ3ND. Tiểu Đoàn
9 dàn quân thành hai mũi ĐĐ93 của Đ/U Hồ Tường và ĐĐ 92 của Trung Úy
Nhơn tấn công từ trên cao đánh xuống. Trong lúc đó, bên sườn dốc
đứng phía dưới, Trung Tá Nhỏ cùng Đại Úy Trần Ngọc Chỉ bày trận thế
nghi binh để cho địch quân tưởng là ta tấn công mặt nầy. Địch quân
dùng giàn thung bắn thư rơi khiêu chiến “ Thách ngụy Dù lên đánh”.
Vì biết địch quân lợi dụng hầm hố kiên cố trên
đỉnh 1062, pháo binh của ta không làm gì được, Đại Úy Tường cho
phóng lựu đạn cay lên buộc địch quân phải chui ra khỏi hầm sau đó
gọi phi pháo thả bom Napalm hỏa thiêu đỉnh đồi 1062 đồng thời xua
quân bao vây nguồn tiếp tế và nước. khiến địch quân chịu không nổi
phải bỏ chạy. Ta và địch giằng co đỉnh đồi nầy nhiều lần, quân số
đôi bên đều bị tiêu hao nhiều. Trung Úy Nhơn bị thương cả hai chân
vì đạp phải mìn hơi.
Ngày 8/11/1974 lực lượng Nhảy Dù phản công tái
chiếm lại 1062 và lập tuyến phòng thủ quanh sườn núi. Dẹp tan các
chốt lẻ tẻ cuả địch và thu nhặt xác các quân nhân Nhảy Dù bị tử trận
trong thời gian trước đó. Nhờ thời tiết giá lạnh nên các xác không
bị hư hủy..
Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù sau hai tuần nghỉ ngơi và
chỉnh trang lại được đưa vào vùng phía Bắc của 1062, Thiếu Tá Phú
(biệt hiệu Phú "đen") sử dụng tối đa các phi tuần A-37 oanh kích tối
đa mục tiêu và áp dụng chiến thuật đánh địch bất ngờ và kín đáo bằng
cách tung hai Đại Đội 11 & 15 duyên theo đường thông thủy tiến vòng
lên phía Bắc thay vì đi theo yên ngựa rồi bất thần quay lại tấn công
chớp nhoáng vào D1 và D2.
Vì hướng tấn công ngoài sự tiên liệu, Bắc quân
chỉ chú trọng phòng thủ hướng về 1062, nên chỉ tới trưa là Đại Đội
15 thanh toán xong D1 và Đại Đội 11 chiếm xong D2 với tổn thất được
xem như nhẹ, Đại Đội 15 bắt sống 2 tù binh, tịch thu 2 thượng liên,
và một số súng cá nhân. Đại Đội 11 thu được 1 súng cối 61 ly và một
số súng cá nhân.
Sau đó Bắc quân tháo lui vì chịu không nổi phi
pháo của Việt Nam Cộng Hòa ngày đêm dập vào các điểm trú quân của
họ. Bộ chỉ huy cộng quân thấy khó giữ 1062, nên ra lệnh rút lui
trong đêm tối, rồi bọc qua sông Vu Gia, đánh bất ngờ vào Bộ Chỉ Huy
của Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù đóng gần Hà Nha.
Thiếu Tá Trần Công Hạnh tân Tiểu Đoàn Trưởng, cùng Tiểu Đoàn trừ đóng ở làng Hà Nha 1. Còn Thiếu Tá Nguyễn Văn Phương (Tiểu Đoàn Phó), chỉ huy 2 đại đội ở bên kia sông, phải tả xung hữu đột mới phá được vòng vây.
Thiếu Tá Trần Công Hạnh tân Tiểu Đoàn Trưởng, cùng Tiểu Đoàn trừ đóng ở làng Hà Nha 1. Còn Thiếu Tá Nguyễn Văn Phương (Tiểu Đoàn Phó), chỉ huy 2 đại đội ở bên kia sông, phải tả xung hữu đột mới phá được vòng vây.
Sáng hôm sau, Thiếu Tá Phương cho các Đại Đội
tung ra lục soát, Chuẩn Úy Tạ Thái Bảo dẫn Trung Đội tiến chiếm vị
trí chốt mà địch đã đặt thượng liên bắn vào Tiểu Đoàn 2. Vừa báo cáo
chiếm chốt xong thì nghe tiếng "Ầm," tiếp theo là bụi cát bay mù nơi
anh vừa chiếm. Chuẩn Úy Bảo hy sinh bởi quả đạn pháo kích từ đỉnh
đồi cao gần chân đèo Thường Đức. Thiếu Tá Phương phái Thiếu Úy Tăng
Thành-Lân chỉ huy trung đội chiếm lại chốt trên đồi nhỏ đó. Lân gọi
pháo binh bắn nát rồi dẫn quân xung phong tiêu diệt toàn bộ địch
trên cao địa nầy. Anh chuẩn bị lại hầm hố cẩn thận đề phòng địch
phản công. Nhưng khoảng 20 phút sau, địch lại bắn sơn pháo ngay đồi
và Thiếu Úy Lân cũng bị hy sinh. Thiếu Tá Phương lập tức kêu phi
pháo đánh vào điểm đặt súng của địch, hai bên giằng co nhưng không
ai đến vùng tử địa đó nữa.
Vài hôm sau, khi Tiểu Đoàn 2 được lệnh chiếm đỉnh
126 để bảo vệ đèo Thường Đức và gặp sự kháng cự mạnh mẽ của Bắc quân
đang bám trụ tại đây. Sau nhiều đợt xung phong của các chiến sĩ Tiểu
Đoàn 2, địch đành phải rút chạy bỏ lại hàng chục vũ khí đủ loại.
Phía bên Nhảy Dù cũng bị hy sinh ba sĩ quan tài giỏi là Trung Úy
Thịnh, Thiếu Úy Trần Đại Thanh, và Thiếu Úy Lê Hải Bằng. Sau đó
Thiếu Tá Trần Công Hạnh lên làm Tiểu đoàn trưởng thực thụ và bạn
cùng khóa 20 là Trần Tấn Hòa về làm Tiểu Đoàn Phó.
Tiểu Đoàn 7 ND do Thiếu Tá Nguyễn Lô (Tiểu Đoàn
Trưởng), và Thiếu Tá Nguyễn Văn Quý, từ Tiểu Đoàn 1 trở về, làm Tiểu
Đoàn Phó, được lệnh nửa đêm cấp tốc tiến đánh suối Ba Khe. Các chiến
sĩ Nhảy Dù dùng chiến thuật dương Đông kích Tây cho chủ lực đánh bọc
phía sau lưng khiến địch rối loạn hàng ngũ, rút chạy chém vè, để lại
hơn 200 vũ khí đủ loại, hậu cần bị phá hủy, và toàn bộ tiểu đoàn bị
tiêu diệt.
Đại Úy Tú Trinh, người hùng diệt tăng ở Quảng
Trị, đã bị thương trong trận này. Trước đó Nguyễn Lô đã đứng trên
đỉnh Đông Lâm thuộc dãy Sơn Gà tuyên bố nhất định chiến thắng để
mừng Tết và anh đã thực hiện lời nói một cách quá xuất sắc. Tiểu
Đoàn 11 ND tiến lên đỉnh 1062 thay cho Tiểu Đoàn 9 rút về Non Nước
dưỡng quân và tái trang bị.
Đến cuối năm 1974 thì Sư Đoàn Nhảy Dù rút quân về
quận Đại Lộc nghĩ ngơi, bổ sung thiệt hại và chuẩn bị cho chiến dịch
kế tiếp, chỉ để lại Tiểu Đoàn 1 và 7 Dù đóng ở khu vực Đồi 52 và núi
Đông Lâm cách Đồi 1062 khoảng 4 km về phía đông, thường xuyên đưa
các toán tuần tiểu vào khu vực Đồi 1062 và sử dụng hỏa lực pháo binh
để ngăn chận sự xâm nhập của Cộng quân. Kể từ đây,tình hình quân sự
tại cả hai phía Nam và Bắc đèo Hải Vân hoàn toàn yên tỉnh cho đến
khi SĐND bắt đầu rút quân khỏi Quân Khu I khoảng trung tuần tháng
3/1975.
Tổng Kết tổn thất trong 3 tháng giao tranh:
Tổng Kết tổn thất trong 3 tháng giao tranh:
Từ khi khởi đầu chiến dịch Thường Đức vào ngày 15
tháng 8 liên tục trong ba tháng chiến đấu ác liệt quanh khu vực đồi
1062, các đơn vị Nhảy Dù đã bị thiệt hại đến 50 phần trăm quân số,
với gần 500 chết và 2,000 bị thương. Sư Đoàn Nhảy Dù sử dụng luân
phiên tổng cộng 7 Tiểu Đoàn trong chiến dịch này và đến giữa tháng
11 có đến 6 tiểu đoàn hoạt động trong khu vực Đồi 1062. Ba trung
đoàn CSBV (24, 29, 66) gần như bị xóa tên với 2,000 bộ đội chết và
5,000 bị thương. Cả hai bên đều kiệt sức sau một chiến dịch đẫm máu
.
Nhảy Dù : 500 chiến sỉ hy sinh 2000 bị thương.
Cộng Sản : 2000 chết, 5000 bị thương ( tài liệu :Col.William E.
Le Gro trong VietNam from Cease Fire to Capitulation )
Tài liệu tham khảo:
- Đời Chiến Binh của Trương Dưởng xuất bản tại California ngày 15/5/1999
- Chiến Tranh Việt Nam toàn tập của Nguyễn Ðức Phương Làng Văn Canada xuất bản 2001
- Bạo Lực Cách Mạng Và Chiến Dịch Ðột Kích Chiến Lược Năm 1974 của Mê Kông trên trang nhà vietnam.ictglobal.net
- Phỏng vấn các chiến hữu Nhảy Dù.
Đại Úy Võ Trung Tín
Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202
Đại Úy Nguyễn Hữu Viên
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – 714-724-8933
Chúng tôi rất mong được đón nhận những ý kiến bổ chính của các chiến hữu cho những sai sót vì vấn đề thời gian đã trên 30 năm và tài liệu tham khảo hạn hẹp.Email: votrungtin@hotmail.com
Tài liệu tham khảo:
- Đời Chiến Binh của Trương Dưởng xuất bản tại California ngày 15/5/1999
- Chiến Tranh Việt Nam toàn tập của Nguyễn Ðức Phương Làng Văn Canada xuất bản 2001
- Bạo Lực Cách Mạng Và Chiến Dịch Ðột Kích Chiến Lược Năm 1974 của Mê Kông trên trang nhà vietnam.ictglobal.net
- Phỏng vấn các chiến hữu Nhảy Dù.
Đại Úy Võ Trung Tín
Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202
Đại Úy Nguyễn Hữu Viên
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – 714-724-8933
Chúng tôi rất mong được đón nhận những ý kiến bổ chính của các chiến hữu cho những sai sót vì vấn đề thời gian đã trên 30 năm và tài liệu tham khảo hạn hẹp.Email: votrungtin@hotmail.com
Thân gửi các anh NKT,
ReplyDeleteVào khoảng gần giữa năm 1975, chúng tôi đang bị nhốt ở trại tù Yên Bái (tù Hạ Lào), thì có có một số anh em trong Nam mới bị bắt sau này được đưa ra nhốt chung trại với chúng tôi nhưng khác khu vực. Trong số anh em mới ra phần lớn là bị bắt ở các mặt trận lớn như Phước Long, Dak-peak, Thường Đức,v.v...và trong số anh em bị bắt ở Thường Đức tôi biết có 1 hoặc 2 toán của Sở Công Tác(NKT) cũng bị bắt chung. Vì trước đó, vào năm 1974, lúc còn bị nhốt ở trại tù Nghệ An, cán bộ việt cộng ở trại thường cung cấp báo Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân cho anh em tù, trước là để "nghiên kíu và học tập" rồi sau đó là để xé ra từng miếng nhỏ dùng quấn thuốc rê hút. Nếu anh nào không hút thuốc thì dùng giấy báo để "chùi đít"(chỉ xài dè xẻn có hạng thôi chứ hầu hết ai nấy đều xài lá rừng...mới tiện và đủ!). Trong số báo chúng tôi đọc có phần tin tức nói về mặt trận Thường Đức và tù binh "ngụy" bị bắt trong đó có cả mấy toán "biệt kích". Vì là phe ta nên tôi biết ngay là mấy toán bị bắt này(nếu có) thì chắc chắn 100% là của Sở Công Tác(SCT) rồi. Thế rồi đến năm 1975, khi anh em bị bắt ở Thường Đức được đưa ra nhốt ở Yên Bái. Lúc đầu việt cộng cấm "tù cũ" liên hệ với "tù mới" nhưng sau dần vì nhu cầu công việc nên tụi nó buộc phải để anh em tù cũ và mới làm việc chung. Trong lúc đi làm lao động "khổ sai" chung như vậy tôi mới có dịp lân la hỏi thăm và được gặp một anh trưởng toán của SCT(do anh tự giới thiệu trong lúc nói chuyện). Vì hoàn cảnh khó khăn lúc đó nên chúng tôi chỉ có thể nói chuyện qua loa ít phút mà thôi. Sau đó tôi có gặp lại anh ta nhiều lần trong lúc đi lao động cho đến ngày tôi được thả về Nam. Đến nay đã mấy chục năm trôi qua rồi, tôi đâu còn nhớ mặt và tên của anh ấy nữa nhưng có một điều tôi nhớ chắc chắn là vào thời điểm đó có một toán SCT bị bắt ở Thường Đức và bị đưa ra nhốt chung trại tù Yên Bái với chúng tôi. Tôi nghĩ sau khi tôi được thả, nếu anh trưởng toán đó còn sống sót thì nay anh ấy cũng đã được thả rồi. Tôi hy vọng rằng với một chút tin tức nhỏ nhoi này của tôi biết đâu có thể là manh mối để anh em bạn bè và người thân của anh có thể may mắn tìm ra được tông tích của anh nếu đó chính là anh chuẩn uý Lê Văn Tường thuộc Đoàn 71 của chúng ta.
Thân ái,
KingBee219
Doan 11 khong co c/u hay t/u Tu+o+`ng. Chi co' T/u Tru+o+`ng. Hoa hoi cac doan cong tac kha'c xem sao.
ReplyDeleteHoang 11
Có lẽ Đoàn 71 thì đúng hơn vì chỉ có Đ71 mới có toán bị mất cả toán ở Thường Đức,Toàn và Hưng hoặc Chuyên có thể biết,có lẽ mất chung với Tịnh mèo,Kính,vì nếu học Thủ Đức cuối 72 thì chắc thuộc khóa 8 hoặc 9 hay là 1/73 ,2/73 chứ khóa 3/73 thì cũng nhập khóa cuối 72 nhưng không có tên Tường về NKT.
ReplyDeleteCTN
Hi Ngoc,
ReplyDeleteToan thuoc khoa 8B/72 TD chi co 3 ten trong do co Toan va Ngo Ngoc Thanh ve 71, neu Tuong ve 71 thi Toan biet( vi nguoi cung que)
Toan 71
Anh Hòa mến.
ReplyDeleteXin anh check lại vì nếu là thân quyến sao lại nhầm họ Nguyễn sang họ Lê ???
Đ11 cũng có nguyên toán mất tích ở Thường Đức vào tháng 5 năm 1974.
Chuyến công tác đó tôi là trưởng toán, chỉ có 5 nhân viên gồm Sơn ,Tường, Kính ,Lai, Bô .
Chuẩn úy Nguyễn văn Tường (Triệu Phong Quảng Trị) Sĩ quan Thủ Đức 1974 về ĐCT 11 HY SINH trong công tác khoảng 9 giờ sáng ngày 22 tháng 5 1974 tại Thường Đức.
Chuẩn úy Phan đình Kính ở tù mãn hạn được thả, nhưng sau lại mất tích không rõ lý do.
Xâm nhập chiều 19/5/1974 ngay sau khi xuống bãi đã thấy rất nhiều dấu vết hoạt động của địch ( trước đó khoảng 1 tuần đã có một toán của Đ 71 mất tích nguyên toán trong khu vực này ,sau khi bị bắt tôi đã gặp c/u Trần văn Quang người còn sống sót duy nhất trong toán đó của Đ 71)
Ngày 20/5/74 toán thấy rất nhiều dấu vết trên cỏ tranh biết bị địch âm thầm bao vây với quân số rất đông nên di chuyển xóa dấu vết thận trọng.
Ngày 21/5/74 vòng vây bị thu hẹp vì địch tổ chức rất nhiều toán, mỗi toán cỡ 20 người bao vây xoay trôn ốc từ ngoài vào trong.
Ngày 22/5/74 địch tấn công trực diện vào lúc 9 giờ sáng nhưng nhờ đã thận trọng chọn vị trí tốt bên cạnh 1 triền núi sâu lõm xuống 3 thước nên toán lăn xuống dưới tầm đạn, nếu không thì đã tiêu nguyên toán
Ngay giây phút chạm địch đầu tiên c/u Tường hy sinh tại chỗ vì không kịp lăn xuống hố,Lai bị thương nhẹ vẫn cùng với toán chạy thoát được lần tấn công sáng hôm đó , lực lượng địch rất đông vì đang tập trung vây hãm Thường Đức bủa ra lùng bắt suốt ngày vây toán vào giữa.
Khoảng 5 hoặc 6 giờ chiều cùng ngày toán bị một lực lượng địch phối hợp với Thượng cộng dẫn chó săn truy kích phát hiện và bị bắt.
Sau khi toán bị bắt Cộng quân đã đánh chiếm được Thường Đức lần đầu tiên tháng 5/74, sau quân Dù đã phải tái chiếm lại.
Sau khi bị bắt tôi đã hỏi về di hài của C/u Tường thì chỉ được cho biết là đã chôn rồi nhưng hỏi ở đâu thì không cho biết và đã bị 2 báng súng AK vì câu hỏi đó.
Tôi nghĩ là địch đã chôn anh trong vùng mục tiêu hành quân và theo Bưu tín báo cáo mất tích của NKT/SCT/Đoàn Công - Tác 11 gửi về cho gia đình tôi thì tôi mất tích trong cuộc hành quân THẦN-LONG 115 (MT. 115 U) tại tọa độ YC. 985618 thuộc lãnh thổ Quận Thường Đức, tỉnh Quảng Nam , (QK.1) - Được Quy Trách Vì Công Vụ.
Ngoài ra ĐCT 11 có 2 sĩ quan trưởng toán tên Trường :
Trung úy Lê viết Trường hy sinh trong khi thi hành công tác
Thiếu úy Phùng văn Trường (hình như cũng đã hy sinh)
Sơn ĐCT 11
Anh tôi, Lê Văn Tường, nguyên quán: Quảng Trị, sinh năm 1954, có bằng Tú Tài 1 năm 1972, bị tổng động viên, vào học sĩ quan Thủ Đức giữa hoặc cuối năm 1972. Tôi chỉ biết anh ấy công tác tại Đoàn công tác 11 - Bộ Tổng TM mang lon Thiếu úy, đóng quân tại bán đảo Sơn Trà, Tháng 6 năm 1974, nhóm nhảy gồm 6 người đều bị bắt gọn tại phía Tây - Quảng Nam. Hồi đó tôi còn nhỏ và gia đình đang sống tại Ninh Thuận, hiện nay là xã Quảng Sơn, Ninh Sơn, Ninh Thuận. Khi có thông báo mất tích, cha tôi (đã chết năm 2007) đã ra Đà Nẵng và được (hình như là Trung tá đoàn trưởng) kể lại toán nhảy gồm 6 người, có Trung úy Sơn làm toán trưởng (tôi nhớ không rõ lắm). Lần nhảy đó gồm có 3 toán, đến ngày thứ ba khi chuẩn bị đón trực thăng bốc về thì toán nhảy của anh tôi gặp đối phương, nhân viên truyền tin bị bắn và lăn xuống khe nước, những thành viên còn lại đều bị bắt. Khi tìm và đưa được anh truyền tin về căn cứ kể lại chi tiết, nhưng khoảng hai giờ sau thì anh ấy chết (thông tin này Đoàn trưởng kể lại cho Cha tôi). Nếu anh tôi còn sống một cách bình thường thì chắc gia đình tôi đã có tin. Gia đình chúng tôi chỉ muốn biết anh ấy chết và được chôn cất như thế nào để chúng tôi có thể tìm được mộ của anh ấy, dẫu sao đó cũng là niềm an ủi duy nhất cho gia đình. Nếu có điều kiện, xin các anh bỏ chút thời gian tìm hiểu và thông tin cho chúng tôi. Xin cám ơn nhiều.
ReplyDeleteHi Hòang,
ReplyDeleteHòang có thể tìm cao độ của vùng này, đồi Băng Đông bên cạnh 1227 feet, và khu thấp phía dưới 560 feet, trong thời gian này rotation của 11, 72 rồi 71, sau khi Tóan anh Sơn mất và đến rotation của Đòan 72 tôi nghĩ tôi đi một chuyến trong cùng khu vực vì đây là điểm tập trung của đường tiến quân SD304, SD324 và SD325 VC, trong chuyến này có 3 tóan của Đòan 72, và Tóan 723 của tôi thả trong sâu nhất, đến ngày triệt xuất chỉ bốc được 2 tóan phía ngòai, vì phòng không quá dữ dội nên Phi Đòan 253 cố gắng hết sức nhưng không vào được, vùng này núi cao và triền dốc đứng, không có bải đáp,
Khi được lệnh triệt xuất và chúng tôi nghe tiếng trực thăng và bấm mìn claymore đễ ủi một bụi cây làm bãi triệt xuất, lúc ấy phòng không trên núi bắn khủng khiếp, nên trực thăng quay ra, sau khi mìn nổ bọn VC
đã biết tóan bị lộ và tràn xuống sườn núi đông như kiến, khu vực này vào buổi sáng bọn VC bắn súng liên lạc nhau, có lẽ khõang hơn 1 trung đòan, cuối cùng gunship ủi bải và trực thăng bốc tóan vào được và máy bay chỉ đáp một bên càng, cuối cùng cũng ra khỏi vùng và chỉ một nhân viên tóan bị thương.
Nếu đúng là khu vực này tôi nghĩ ngày nay không có đừơng xe vào
vì rất hiễm trở.
Chuyến cuối cùng tại Thượng Đức tóan xâm nhập đường bộ xuất phát từ Quận và trong chuyến này Tóan bị chó VC rượt 2 ngày đêm và xuyên qua bãi mìn với đầu đạn 105MM biến chế, khi đòan 72 vừa đổi Đòan 71 hình như vài ngày sau bị Overrun.
( NT Thiện xác nhận giùm ).
Cho dù chiến tranh chấm dứt từ lâu, riêng với những gia đình có thân nhân mất tích luôn khắc khõai, cám ơn anh em đã cố gắng cung cấp tin tức, giúp gia đình gỉai tỏa phần nào ưu tư.
Hy vọng có một phép lạ nào đó, gia đình Chuẩn Úy Lê Văn Tường tìm được nơi bạn mình an nghĩ.
Và gia đình cũng đã biết ngày chính xác để làm giổ cho anh Tường
Cám ơn anh Sơn và các anh em.
PH/NKT
Hòa thân,nếu tôi nhớ không lầm thì chính tôi là người đã bốc toán Hòa vừa kể.Biệt đội tôi đang biệt phái ở Phú Bài,lịnh Đ/tá Phước về rước toán khẩn cấp vùng Thượng Đức.Tôi biết toán bị truy kích và hỏa lực phòng không rất nặng,vào vùng tôi cho gunship dọn bãi và thấy cả vài tên VC chạy lố nhố,bãi đáp không được an toàn, chờ rước từng toán viên rất khó khăn,tiếng súng,tiếng bom,tiếng gào thét náo động và tiếng rên la của người bị thương làm tôi mất khá nhiều bình tỉnh,rời vùng như vừa thoát chết,sao tôi nhớ phi vụ nầy có tên xạ thủ đại liên của tôi cũng bị thương nhẹ phải về đáp bịnh viện Duy-Tân,lâu quá không nhớ rõ lắm.Ngồi ôn lại cho vui chó thật ra mình quên rất nhiều phi vụ mà cá nhân tôi từng thoát chết trong đường tơ kẻ tóc.Nghỉ lại mình còn sống đến ngày nầy là rất may mắn và tìm gặp lại nhau rất quý
ReplyDeleteMong gặp lại bạn nhiều
Phúc dù
Anh Hoà và Anh Phúc ơi
ReplyDeleteHậu đang ngồi ngoài một bệnh viện ở Dayton Ohio để thăm một người Anh em thì đọc những dòng email bên dưới làm Hậu rất xúc động về tình chiến hửu " sống chết có nhau - không bỏ Anh em- không bỏ bạn mình "
Hy vọng Anh Hoà có thêm " Tôi Vẫn Còn Nhớ ( tập 2 )" để thế hệ trẻ thấy thêm ....
Một ngày vui ấm cho tất cả
Thân mến
Hậule